Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Giáo dục từ sớm tới thiên tài


Giáo dục từ sớm tới thiên tài
Kimura Kyuichi

Lời Nói Đầu
Nhiều năm trước đây thường có chuyện con cái của những gia đình giàu có bị bắt giữ vì
những hành vi trái đạo. Khi ấy những gia đình giàu có này sẽ tìm đến cánh nhà báo mà họ
vẫn thường qua lại, phân bua với họ rằng “ Tôi vì quá bận rộn với việc kinh doanh nên không
thể để mắt đến con cái được. Nay xảy ra hậu quả thế này, tôi thật không còn mặt mũi nào
nữa…” Và những lời này cũng sẽ được đưa lên mặt báo.
Nếu nói rằng công việc kinh doanh bận rộn không thể nghĩ đến con, cũng có nghĩa là vì
quá mê kiếm tiền mà quên đi con cái. Trên đời này chắc chắn có những người như thế, nhưng
cuốn sách này viết ra hiển nhiên không phải để cho những người đó đọc.
Cũng có những cô gái “của thời đại mới” mang trong mình suy nghĩ “Nếu sống cuộc
sống của một người mẹ sẽ gây trở ngại đến sự phát triển cá nhân, sẽ phá hỏng công việc cũng
như sinh hoạt của bản thân”. Như thế cũng có nghĩa là, những người này ghét làm mẹ ít nhiều
vì điều đó ảnh hưởng đến sự phát huy thói “Tự kỷ” của mình. Trên đời này cũng có không ít
những cô gái như thế, và đương nhiên, cuốn sách này được viết ra cũng không dành cho họ.
Nhưng, cũng còn những người, biết rằng, bản thân mình dù chỉ làm đến đây thôi, nhưng
ít nhất sẽ cố gắng làm cho con mình trở thành hoàn hảo; họ cũng hiểu rằng, mình chỉ là nấc
thang thứ nhất, con của mình sẽ là nấc thứ hai, và những gì mình đã không thể làm được thì
con cái sẽ tiếp tục giúp mình… Những con người đó, bất kể họ có thành công hay thất bại,
nhưng, đối với xã hội, đối với nhân loại thì họ vẫn là những thiên tài, là những con người ưu
tú mà trong hàng ngàn vạn người mới có được. Cuốn sách này của tôi được viết ra với kỳ
vọng dành cho những người như thế.

Chương 1: Giáo dục từ sớm là đào tạo anh tài
I. Nhiều năm trước có một thiếu niên đã tốt nghiệp Đại học Havard khi mới 15 tuổi. Người
thiếu niên đó có tên là William James Sidis, con trai của nhà tâm lý học nổi tiếng Boris Sidis,
và thành tích học tập này được coi là hết sức kỳ diệu.
Cậu bé William bắt đầu được học từ khi 1 tuổi rưỡi, và đến lúc 3 tuổi đã biết đọc biết
viết tiếng mẹ đẻ. Lên 5 tuôi, khi nhìn thấy tiêu bản một bộ xương trong nhà, cậu bé đặc biệt
hứng thú với cấu tạo cơ thể người và bắt đầu bước vào môn Sinh lý học, không lâu sau đã đạt
được trình độ học vấn tương đương với người có chứng chỉ hành nghề y thuật.
Vào mùa xuân năm lên sáu tuổi, cậu đến trường tiểu học cùng những đứa trẻ khác.
Ngày nhập học, Willam vào lớp 1 lúc 9 giờ, và đến 12 giờ khi mẹ đến đón, cậu đã học xong
lớp 3. Trong năm đó, cậu bé đã học xong tiểu học. Lên 7 tuổi Willam muốn học tiếp trung
học nhưng vì tuổi còn nhỏ nên bị từ chối và phải học ở nhà, hầu hết là học về Toán học. Năm
8 tuổi cậu vào trường Trung học, môn nào cũng xuất sắc, đặc biệt là Toán học, đã có thể giúp
thầy sửa bài cho những học sinh khác. Thời gian đó, Willam đã viết sách Thiên văn học, ngữ
pháp tiếng Anh, tiếng Latinh. Những kiến thức Trung học tất cả đã được cậu nắm vững và
chẳng mấy chốc đã tốt nghiệp. Tên tuổi Willam đã bắt đầu nổi tiếng, nhiều người gần xa đã
đến tìm cậu để kiểm chứng, hết thảy đều hết sức khâm phục. Lấy ví dụ một giảng viên Đại
học ở bang Massachusetts đã đưa cho cậu một câu hỏi khó trong đề thi Tiến sĩ của mình tại
Đức, trong nháy mắt cậu đã hoàn thành. Lúc đó Willam mới 9 tuổi. Trong 2 năm 9-10 tuổi,
Willam tự học ở nhà, và đến 11 tuổi thì vào học tại Havard, không lâu sau đã tham gia diễn
thuyết về đề tài “Không gian chiều thứ 4” – một vấn đề rất khó của Toán học, và đã khiến các
giảng viên hết sức ngạc nhiên. Năm 12 tuổi, Willam đã rất tâm đắc với cuốn “Thiên tài và
người bình thường” của bố mình là Tiến sĩ Boris. Cậu đặc biệt giỏi về Thiên văn học và Toán
học cao cấp, là những thứ mà các học giả thời đó rất đau đầu.

Đặc biệt hơn, Willam còn thuộc cả bản gốc bộ sử thi Iliad và Odise viết bằng tiếng Hi
Lạp. Từ trước cậu đã rất giỏi các ngôn ngữ cổ xưa, những tác phẩm như Eskirus, Sofokures,
Euripides, Aristofanes, Rusian, cậu đều đọc và hiểu dễ dàng, chẳng khác gì cuốn Robinson
Cruso mà những đứa trẻ khác vẫn hay đọc. Cậu cũng nắm rõ về thần thoại và ngôn ngữ ví
von, lý luận học, lịch sử cổ đại, lịch sử nước Mỹ, hiểu biết về chính trị và hiến pháp của các
quốc gia khác.
Với trình độ đó, cậu đã tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, và tiếp tục học để lấy bằng Tiến
sĩ.
Cũng trong năm đó, cùng tuổi với Sidis còn có một thiếu niên khác cũng tốt nghiệp
Havard, là Adoref Bar, con trai của Giảng viên môn Thần học trường ĐH Taft. Cậu vào học
sau Sidis một chút, khi 13 tuổi rưỡi, tuy nhiên thay vì học 4 năm như mọi người, cậu chỉ học
mất 3 năm. Sau đó cậu tiếp tục theo ngành Luật.
Ngoài ra vẫn còn một người khác, con trai của Tiến sĩ ngôn ngữ Slav (x-la-vơ), tên là
Nobert Wiener. Cậu vào học Đại học trước Sidis, đúng ra là học ĐH Taft từ năm 10 tuổi, và
đến năm 14 tuổi thì tốt nghiệp và học tiếp Cao học tại Havard, đỗ Tiến sĩ năm 18 tuổi.
Đọc những điều ở trên người ta chắc hẳn sẽ nghĩ đấy chính là những Thần đồng trên thể giới.
Nhưng, từ xa xưa đã có câu nói “ 10 (tuổi) là Thần đồng, 15 là Tài tử, còn trên 20 lại là người
bình thường”, và chỉ có con cái của chính chúng ta mới là những bông hoa đẹp. Nếu ta chỉ
làm được 1 chút và giải thích rằng ta chỉ là người bình thường, còn để là những Thần đồng
trong một chốc lát đã học xong Đại học, thì là của hiếm, cách nghĩ đó là hoàn toàn sai lầm!
Những người đó không phải một cách ngẫu nhiên được sinh ra đã là Thần đồng. Họ là kết
quả của nhiều nền giáo dục, là những anh tài được đào tạo

Bar và Nobert cũng có anh chị em, và cũng được trải qua quá trình học tập như nhau.
Chị gái của Bar là Lina, trong khi Bar học tại Havard thì ở tuổi 15, Lina cũng vào học tại Đại
học nữ Radcliffe và cùng đồng thời tốt nghiệp với Bar. Và, em gái của Wiener là Constans
cũng vào học tại Radcliffe năm 14 tuổi, và cô em gái kế tiếp là Berta cũng vào học trong
cùng năm ở tuổi 12. Không thể có sự ngẫu nhiên nào như thế. Đó thực sự là kết quả của việc
giáo dục mà nên.
Nhưng, sự giáo dục cũng có nhiều loại, và nền giáo dục đó là như thế nào? Có thể nói
nó cũng tựa như việc nuôi dưỡng trong nhà kính. Những cô bé cậu bé đó, cũng giống như là
hoa trong nhà kính, được nhân tạo để ra hoa kết trái sớm, vì thế trở thành những thần đồng.
Nói cách khác, đó chính là Thần đồng nhân tạo, và cũng sẽ không tránh khỏi sự tồn tại của
bệnh tật, già lão, cũng như không tránh khỏi quy luật “từ 20 trở đi lại là người bình thường”.
II.
Từ xa xưa cũng đã có những người được hưởng nền giáo dục giống như những cô bé
cậu bé ở trên. Nhà Luật học người Đức Carl Vitte là một trong số đó. Ông sinh vào tháng 7
năm 1800 tại một ngôi làng của vùng Hale. Cha ông chỉ là mục sư của làng, nhưng có rất
nhiều sáng kiến đáng ngạc nhiên, trong số đó đặc biệt nhất là những lý luận về giáo dục. Khó
có thể hiểu được tại sao ở vào thời đó ông đã có những suy nghĩ như vậy, nhưng quả thực
ông đã cho rằng phải giáo dục con cái ngay từ khi là một đứa trẻ còn đỏ hỏn. Nói theo ngôn
ngữ của ông, giáo dục con trẻ phải là giáo dục bắt đầu từ buổi bình minh của khả năng nhận
thức, và ông tin rằng với cách đó, đứa trẻ sẽ trở nên phi phàm. Ông cũng tuyên bố rộng rãi
rằng mình sẽ làm như vậy với con cái. Không may, đứa con đầu lòng của ông đã qua đời
ngay sau khi sinh, và kế tiếp là Carl Vitte. Nhưng Vitte lại là đứa trẻ không thể ngờ tới, đến
mức chính ông đã phải thốt lên “Tôi đã làm gì nên tội đến mức ông Trời phải khiến tôi có
một đứa con đần độn như thể này!” Những người xung quanh cũng đến an ủi ông, ngoài mặt
nói rằng không đến mức phải lo lắng quá, nhưng lại thì thầm sau lưng rằng Vitte đúng thực là
một đứa trẻ kém phát triển.
Tuy nhiên, người cha đã không tuyệt vọng. Ông đã dần dần áp dụng những kế hoạch
nuôi dưỡng của chính mình. Đầu tiên, ngay cả mẹ nó cũng nói rằng, đứa trẻ thế này thì dù có
dạy dỗ thế nào cũng vô ích, sẽ chẳng thể trở thành gì cả. Nhưng tấm lòng người cha của ông
không cho phép từ bỏ, và rồi không lâu sau đứa trẻ đần độn đã khiến tất cả mọi người xung
quanh phải ngạc nhiên. Năm lên 8, 9 tuổi, cậu bé đã thông thạo 6 thứ tiếng: Đức, Pháp, Italia,
Latinh, Anh và Hi Lạp; không những thế lại còn hiểu biết cả về Động vật học, Thực vật học,
Vật lý, Hóa học, và đặc biệt là Toán học. Kết quả là năm 9 tuổi Vitte đã thi đỗ Đại học.
Tháng 4 năm 1814, cậu bé chưa đầy 14 tuổi đã bảo vệ thành công luận văn Thạc sỹ về đề tài
Số học, và 2 năm sau đã thi đỗ Tiến sĩ Luật và được bổ nhiệm làm giảng viên Luật của
trường Đại học Berlin. Nhưng trước khi đảm nhận cương vị giảng viên, Vitte nhận được
khoản thừa kế lớn từ Quốc vương Prosia và sang Italia du học. Trong thời gian lưu lại
Firenze, ông đột ngột chuyển sang nghiên cứu Dante (hình như là nghiên cứu Thần học nói
về Địa ngục, linh hồn,…), là một nghiên cứu mà không chỉ đối với người nước ngoài mà
ngay cả với người dân Italia là nơi Dante sinh ra cũng phát sinh rất nhiều những cách hiểu sai
lạc. Ông tiếp tục quá trình nghiên cứu đến năm 23 tuổi và cho ra đời cuốn sách “Sai lầm của
Dante”, là một cuốn sách chỉ trích những sai lầm của Học giả Dante thời bấy giờ và mở ra
một con đường nghiên cứu đúng đắn. Chuyên môn của ông là về Luật học, nhưng sau khi
chuyển sang nghiên cứu Dante lại rất thành công trong lĩnh vực đó. Tuy nhiên Quốc vương
Prosia cho ông đi Du học ở Italia là với mục đích để ông trở thành một Luật sư tài giỏi, vì thế
ông tập trung vào nghiên cứu Luật học, còn nghiên cứu Dante chỉ như là giải trí. Sau khi từ
Italia trở về, ông nhận cương vị giảng viên tại Đại học Bresau, 2 năm sau chuyển sang Đại
học Hale và giảng dạy ở đó đến khi qua đời vào năm 1883.

Điều đáng mừng là cha ông đã ghi lại tất cả những phương pháp đã áp dụng với ông cho
đến lúc 14 tuổi, và sau đó viết thành cuốn sách mang tên “Cách giáo dục với Carl Vitte” từ
cách đây hàng trăm năm, nhưng hầu hết những người thời đó đều không lưu lại và nó gần
như đã bị thất lạc hoàn toàn, và những gì còn lại đến ngày nay là rất ít. May sao trong thư
viện của Đại học Havard còn lại một quyển, là quyển duy nhất ở Mỹ, và nó được bảo quản
cẩn thận trong phòng các tác phẩm quý.
Độc giả hẳn còn nhớ, cha của Wiener là giảng viên tại trương Havard. Ông đã đọc cuốn
“Cách giáo dục với Carl Vitte”, và dùng nó để dạy cho các con mình. Tiếp theo là cha của
Sidis, cũng từng là học viên trương Havard, và cũng tình cờ đọc và áp dụng cuốn sách này.
Còn về cha của Bar, tôi không rõ ông có mối liên hệ gì với trường Havard hay không, nhưng
tôi đã đọc cuốn “Trường học gia đình” của ông, và biết chính xác rằng ông đã đọc cuốn
“Cách giáo dục với Carl Vitte” cũng như đã nuôi dạy con theo cách đó.
Tóm lại, cả Wiener, Sidis và Bar đều được giáo dục theo phương pháp của Vitte, và nếu
nhìn từ cuộc đời Vitte thì có thể thấy rằng họ sẽ có tương lai đầy triển vọng. Vì thế chúng ta
cũng không cần phải quá lo lắng về việc “sau 20 tuổi sẽ thế nào” (sách của ông Kimura này
cũng cũ lắm rồi, thời đó mấy người được kể ra ở trên vẫn chưa đến tuổi bách niên giai lão, vì
thế ông chỉ có thể dự đoán tương lai của họ).
Đọc thêm về James Sidis và Nobert Wiener, đến cuối đời đúng là họ cũng khá thành
công, và họ được biết đến như là một sản phẩm đào tạo thần đồng của cha mẹ, nhưng lại
không có tuổi thơ hồn nhiên như những đứa trẻ khác.., có lẽ đấy cũng là mặt trái trong
phương pháp này mà vào thời của mình tác giả Kimura chưa kiểm chứng được… Vì thế mình
nghĩ rằng cuốn sách này chỉ có ý nghĩa tham khảo, tuy nhiên sẽ cố gắng dịch hết để mọi
người cho ý kiến.
III.
Nói một cách ngắn gọn thì phương pháp mà Vitte được giáo dục cách đây hơn một trăm
năm, sau đó áp dụng cho Sidis, Bar, Wiener, có thể gọi là Giáo dục từ sớm. Nói theo ngôn
ngữ của Vitte-cha, thì đó là giáo dục từ buổi bình minh nhận thức của con trẻ. Tất cả những
người áp dụng phương pháp này đều tin răng giáo dục từ sớm là cơ sở để đào tạo anh tài, và
đây là một niềm tin có căn cứ xác đáng. Nếu nhìn vào lịch sử Hi Lạp có thể thấy Athens là
một nơi mà “Thiên tài nhiều như sao trên trời”, trong khi dân số lại rất ít. Ở vào thời thịnh
vượng cũng chỉ có khoảng 50 vạn người, nhưng trong số đó 4/5 là nô lệ. Năm 490 trước công
nguyên, Vua Darius xứ Parsua, Ba Tư đã đưa 12 vạn binh, 6 trăm tàu chiến chinh phạt
Athens, trong khi quân đội Athens chỉ có không quá 1 vạn người, nhưng kết quả tại trận đại
chiến Marathon, Athens đã thắng, và chỉ bị tổn thất 192 người. Nhìn vào đấy có thể thấy rằng
Athens tuy chỉ là một đô thị nhỏ nhưng có rất nhiều nhân tài. Thực chất, những nhân tài đó
đều là những người được giáo dục từ sớm. Giáo dục từ sớm chính là 1 tập quán của người Hi
Lạp xưa.
Thêm một ví dụ nữa, độc giả hẳn đã từng nghe tên Huân tước Kelvin William
Thomson, nhà vật lý học vĩ đại sau Newton, cũng là một người được giáo dục từ khi còn rất
nhỏ. Cha ông, James Thomson, là con của một nông dân người Scotland di cư sang Ireland
sinh sống, tốt nghiệp đại học Glasgow năm 28 tuổi và được bổ nhiệm làm giảng viên Toán
học tại học viện Hoàng gia Belfast. James Thomson có tất cả 4 người con, 2 con đầu là gái, 2
con trai sau là James và William. (James sinh năm 1822, William sinh năm 1824). Ngay từ
khi sinh con ra, ông nhìn lại nửa cuộc đời mình và quyết định phải giáo dục con ngay từ khi
còn nhỏ. Không ai biết ông có đọc sách của Vitte không, nhưng ông có một điểm chung với
bố của Vitte, đó là bắt đầu dạy con đọc và viết từ khi học nói. Sau đó cùng với vợ dạy các
môn Toán học, Lịch sử, Địa lý và tìm hiểu thiên nhiên. Ngoài việc giảng dạy môn Toán, ông
còn viết sách, vì thế hết sức bận rộn. Hàng ngày ông dạy từ 4h sáng, Chuẩn bị bài giảng và
viết sách, buổi trưa dành thời gian dạy con. Không may, năm 1830 vợ ông qua đời, là một cú
sốc rất lớn với ông và các con. Còn lại một mình, ông vẫn tiếp tục cố gắng nuôi dạy anh em
William. Năm 1933, ông được bổ nhiêm làm giáo sư Toán học tại Đại học Glasgow, nhờ đó
ông có thể sắp xếp cho James (10 tuổi) và William (8 tuổi) tham gia các giờ giảng của mình
và 2,3 giảng viên khác. Kết quả thật đáng mừng, sau 2 năm, các con ông đã được nhận vào
học và đều là những học sinh xuất sắc khiến tất cả mọi người phải ngạc nhiên. Sau này thì ai
cũng biết, James trở thành chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật công nghiệp, còn William trở
thành nhà vật lý học vĩ đại, huân tước Kelvin.
Tiếp theo là John Steward Mill, nhà Triết học, kinh tế học, chính trị học, lý luận học,
cũng là người được giáo dục từ rất sớm (ông này cũng giỏi giang giống mấy ông kia, nhưng
đọc thêm ở ngoài thấy ông có bị một tgian khủng hoảng tinh thần ở tuổi 20, mà chính ông
phân tích là do một phần tác động của việc ko được hưởng thời thơ ấu bthg, tuy nhiên tg đó
cũng ko kéo dài và ông tiếp tục thành đạt)
(Sau ông này còn mấy ví dụ nữa cho 1 ông nhà thơ, 1 ông thủ tướng, 1 ông luật học,
đều theo mạch trên).
IV.
Nếu ta trồng một cái cây và để nó tự phát triển thì có thể nó sẽ không sống được, cũng
có thể vẫn sống và cao đến 1m, nếu ta chăm sóc nó có thể cao đến 1.5m, chăm sóc tốt hơn
nữa có thể được 1.8m, 2m hay hơn thế. Một con người cũng như vậy. Đứa trẻ sinh ra sẵn có
100 phần năng lực, nhưng nếu cứ để một cách tự nhiên thì có thể chỉ phát triển được 20, 30
phần. Nếu được giáo dục tốt có thể khi trưởng thành sẽ phát triển đến 60, 70 phần, hay tốt
hơn là được 80, 90 phần. Lý tưởng nhất là đứa trẻ được giáo dục để phát huy được đủ 100
phần năng lực của mình. Nhưng năng lực của trẻ tồn tại theo quy tắc giảm dần: Nếu được
giáo dục tốt từ khi sinh ra thì có thể đạt được đủ 100 phần, nhưng nếu bắt đầu giáo dục từ khi
5 tuổi thì dù có làm tốt đến mấy cũng chỉ phát huy được 80 phần, nếu bắt đầu từ 10 tuổi thì
tối đa chỉ được 60 phần.
Nghĩa là, thời điểm bắt đầu càng muộn bao nhiêu thì khả năng phát huy năng lực sẵn có
cũng giảm đi bấy nhiêu.
Vậy tại sao lại có quy tắc giảm dần này?
Đối với mỗi loài động vật, khả năng của chúng đều có một thời kỳ phát triển nhất định.
Đương nhiên có những khả năng mà thời kỳ dành cho việc phát triển là khá dài, nhưng có
những khả năng chỉ có thể phát triển trong 1 thời gian rất ngắn, và nếu nó không được phát
triển trong thời gian đó thì sẽ vĩnh viễn mất đi. Lấy ví dụ kỳ phát triển “khả năng theo dấu gà
mẹ” của gà con là thời gian sau khi sinh được khoảng 4 ngày, nếu trong vòng 4 ngày mà tách
gà con khỏi gà mẹ thì sau đó gà con sẽ không bao giờ biết đi theo gà mẹ nữa. Hay là kỳ phát
triển “khả năng nghe được tiếng gà mẹ” là tgian sau khi sinh 8 ngày, nếu trong 8 ngày mà gà
con không được nghe tiếng gà mẹ thì sau đó cũng sẽ ko bgiờ nhận dạng được tiếng đó nữa.
Đối với chó con cũng có 1 khả năng gọi là “chôn những thức ăn thừa vào đất” (hình
như chó VN và chó Nhật khác nhau nhỉ ), khả năng này cũng chỉ tồn tại trong một thời gian
nhất định, mà nếu đúng vào thời gian đó, chó con được nuôi trong ngôi nhà không có chỗ để
chôn những thứ này thì sau này nó cũng sẽ không bg biết làm việc đó nữa.
Con người chúng ta cũng như vậy.Có một mùa hè tôi đến một ngôi làng làm ngư nghiệp
và gặp một ngư dân, ông than phiền với tôi rằng, gần đây chẳng có người nào bơi giỏi, chèo
thuyền, quăng lưới giỏi như trước nữa, bởi vì vào tuổi 11, 12 là thời kỳ rất quan trọng để bắt
đầu cho việc đó thì các em đều phải đến trường. Tôi cũng từng nghe rằng khi chính phủ đưa
ra chính sách phổ cập giáo dục thì số lượng những nghệ nhân trong lĩnh vực thủ công hầu
như không có. Hay đối với việc học ngoại ngữ, nếu không bắt đầu từ trước 10 tuổi thì sau này
cũng sẽ không khá được. Học piano thì muốn thành tài nhất thiết phải bắt đầu trước 5 tuổi,
còn violon thì lại phải từ lúc 3 tuổi… Mỗi chúng ta đều có cơ hội để phát triển khả năng của
mình, nhưng nếu bỏ qua thời kỳ của sự phát triển đó thì từng thứ một sẽ vĩnh viễn mất đi.
Đấy gọi là sự giảm dần khả năng tiềm tàng của trẻ. Và “giáo dục từ sớm là đào tạo nhân
tài”chính là ở dựa trên quan điểm đó.
Nhưng, độc giả có thể sẽ lo lắng cho sức khỏe của con mình nếu được giáo dục từ sớm.
Thật ra đây cũng là vấn đề nan giải mà từ xưa người ta đã nghĩ đến. Cha của Witte, cha của
anh em nhà Thomson,…đều phải đối mặt với vđề này. Nhưng trên thực tế, nhưng người ma
ta đã tìm hiểu ở trên tất cả đều có sức khỏe tốt: Witte sống đến 83 tuổi, Huân tước Kelvin thọ
83 tuổi, James Thomson 70 tuổi… Tóm lại là không có bằng chứng nào về việc giáo dục từ
sớm ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.

Chương 2: Witte được giáo dục như thế nào?
I.
Như đã giới thiệu ở chương trước, chúng ta biết rằng cha của Witte đã viết lại một cuốn
sách về việc giáo dục Witte từ nhỏ đến lúc 14 tuổi, lấy tên là “Karl Witte, oder Erziehungsung
Bildungsgeschichte Desselben”, là sách về phương pháp giáo dục cổ xưa nhất. Nhưng
người thời đó hầu như không lưu giữ cuốn sách này. Có 2 lý do. Thứ nhất là vì cách viết
kém: cuốn sách dày hơn 1000 trang nhưng hầu hết là những lý luận không trọng yếu và
không lấy gì làm thú vị. Sau này Tiến sỹ Wiener đã dịch ra tiếng Anh và đã lược bỏ những
phần đó, còn lại khoảng 300 trang, tuy nhiên vẫn còn nhiều chỗ dài dòng. (cuốn này tên là
“The Education of Karl Witte”). Lý do thứ 2 là những luận điểm trong sách không phù hợp
với cách nghĩ của người thời đó. Quan điểm mà cha của Witte đưa ra là: Giáo dục con trẻ
phải bắt đầu từ buổi bình minh của nhận thức. Ông cũng đưa ra tập quán giáo dục từ sớm của
người Hi Lạp, nhưng thực tế tập quán tốt đẹp đó đã không còn trên thế giới từ lâu, và thay
vào đó người ta bắt đầu có quan điểm giáo dục trẻ từ 7,8 tuổi.
Ngày nay nhìn chung mọi người cũng nghĩ như thế, nhưng vào thời Witte, niềm tin đó
còn tuyệt đối và sâu sắc hơn. Và người ta cho rằng Giáo dục từ sớm sẽ ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe của trẻ. Chính vì thế, luận điểm giáo dục của cha Witte được xem như là “bạo
ngôn”, và tài năng của Witte được nghĩ là do sinh ra đã có chứ không phải nhờ giáo dục mà
nên.
Nguyên văn lời ông như sau: “Không ai tin rằng con tôi được như thế là do tôi dạy dỗ.
Nếu quả thực con tôi trở thành nhân tài là do ơn huệ trời ban, là tài năng thiên bẩm thì tôi
cũng không có gì đáng để vui mừng đến thế. Vì thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Hầu
hết mọi người đều không tin lời tôi, kể cả những người bạn thân. Chỉ duy nhất có một người
tin tôi, đó là một mục sư, là bạn rất thân với tôi từ khi còn nhỏ, người hiểu tôi nhất. Ông ấy
nói: Cháu Karl hoàn toàn không phải tài năng thiên bẩm. Cháu thực sự là kết quả của việc
giáo dục. Nhìn vào cách giáo dục cháu thì việc cháu trở nên giỏi giang là điều tất yếu. Chắc
chắn sau này cháu sẽ khiến cả thế giới ngạc nhiên. Tôi hiểu rất rõ phương pháp mà cháu được
giáo dục và tôi tin rằng nó sẽ mang lại thành công lớn.
Và đây là những gì tôi đã làm:Trước khi con trai tôi được sinh ra, trong vùng
Magdeburg và lân cận có một số giáo viên và mục sư trẻ. Những người này cùng nhau lập ra
một hội nghiên cứu về giáo dục. Mục sư Graupit là 1 hội viên ở đó và ông đã giới thiệu tôi
vào hội. Nhưng vào thời đó trong hội có tư tưởng rằng, giáo dục con trẻ quan trọng là ở khả
năng thiên phú, và những giáo viên cho dù có tâm huyết dạy dỗ đến mấy thì kết quả cũng chỉ
đến thế mà thôi. Chỉ có mình tôi là phản đối tư tưởng này. “Không, tôi nói, giáo dục con cái
thì điều cốt yếu không phải là tư chất sẵn có. Trẻ lớn lên trở thành nhân tài hay chỉ là người
bình thường, ít nhiều cũng có yếu tố trời cho, nhưng quan trọng hơn là việc giáo dục trẻ trong
giai đoạn từ khi mới sinh đến khi 5, 6 tuổi. Đương nhiên tư chất của trẻ có sự khác biệt,
nhưng sự khác biệt này chỉ ở mức độ nhất định. Và, không chỉ đứa trẻ sinh ra với tài năng
thiên bẩm mà cả những đứa trẻ sinh ra rất bình thường, ta đều có thể giáo dục chúng trở thành
những tài năng phi phàm. Ervecius đã nói rằng, nếu 10 đứa trẻ cùng được giáo dục đúng đắn
thì tất cả 10 sẽ trở thành nhân tài, và tôi rất tin tưởng vào luận điểm đó”.
Tất cả mọi người lên tiếng phản đối tôi. Tôi lại nói “Các vị ở đây có 13, 14 người, còn tôi chỉ
có 1 mình, nếu tranh luận thì tôi chẳng thể nào thắng được. Nhưng, tôi nhất định chọn con
đường của tôi, và sẽ cho các vị thấy bằng chứng. Sau này nếu trời ban cho tôi một đứa con,
bất kể nó thế nào, tôi cam đoan sẽ dạy dỗ nó thành một nhân tài.” Những người có mặt hôm
đó đã nhận lời với tôi như vậy.

Khi buổi họp kết thúc, mục sư Shuder có mời tôi và Graupit về nhà.Và chúng tôi lại tiếp
tục bàn về vấn đề trên. Nhưng nói gì đi nữa, tôi vẫn giữ ý kiến của mình. Graupit trước sau
chỉ im lặng, cuối cùng mới lên tiếng, đúng như một người bạn thân lâu năm và hiểu tôi nhất
“Tôi tin rằng Witte sẽ biến lời hứa của mình thành sự thực”. Riêng Shuder thì vẫn cho rằng
đó là điều không thể.
Không lâu sau con trai tôi được sinh ra. Khi Graupit thông báo cho Shuder và các hội
viên khác, ai nấy đều rất tò mò muốn biết con trai tôi là người ntn. Tôi và Graupit thường
xuyên nhận được những câu hỏi kiểu như “Thế nào rồi, thằng bé có triển vọng trở thành nhân
tài hay không?”.v.v., nhưng chúng tôi chỉ im lặng.(thiếu 1 trang)…
II.
(Trích lời của Ervecius) Người đàn ông trước khi trở thành một người cha cần phải rèn
luyện bản thân, chuẩn bị tinh thần một cách tốt nhất, đồng thời người phụ nữ được lựa chọn
làm bạn đời cũng phải là một người thông minh, có sức khỏe, có tâm hồn và có trái tim lương
thiện.
Khi người vợ mang thai là phải bắt đầu cùng nhau cải tổ lại cuộc sống (lưu ý là cả vợ và
chồng chứ không phải chỉ riêng người vợ). Nghĩa là, phải tạo lập 1 cuộc sống “sạch”, tránh
các chất kích thích, uống nước sạch, thường xuyên ra ngoại ô hít thở bầu không khí trong
lành, luôn tười cười vui vẻ, hòa nhã với mọi người, giữ cho tinh thần được thư thái yên ổn.
Đây là nội dung thuyết hôn nhân của Ervecius từ cách đây hàng trăm năm, cũng chính là khởi
xướng cho những luận điểm cải cách sau này.
Nhưng, trong số những thuyết của ông thì thuyết về giáo dục là đáng ngạc nhiên hơn cả,
đại ý là nếu 10 đứa trẻ cùng được giáo dục như nhau thì cả 10 đều có thể lớn lên tài giỏi xuất
chúng. Cá nhân tôi tin tưởng vào thuyết này từ rất lâu trước khi con trai tôi được sinh ra. Tuy
nhiên, khác với Ervecius, tôi vẫn thừa nhận có sự khác biệt về khả năng thiên bẩm của trẻ.
Cái gì là trời ban cho, đương nhiên mỗi người mỗi khác. Có những đứa trẻ sinh ra được trời
phú cho 100, cũng có những đứa trẻ sinh ra chỉ được không quá 10. Trong 10 đứa trẻ trung
bình cứ coi như trời cho được 50. Nếu tất cả đều hưởng nền giáo dục như nhau, lớn lên chúng
ít nhiều vẫn khác nhau, đó là do trời định. Nhưng cứ giả sử 1 đứa trẻ được trời cho 80, nếu
không được giáo dục tốt chỉ đạt 40, nhưng đứa trẻ trời cho chỉ 50 mà giáo dục tốt cũng có thể
đạt 40. Đương nhiên, đứa trẻ sẵn có 80 mà giáo dục tốt đương nhiên sẽ đặc biệt xuất sắc, tuy
nhiên trên thực tế những đứa trẻ như vậy quả thực rất ít, mà đại đa số trẻ sẽ rơi vào khoảng
50, tức là ở mức trung bình. Và cho đến nay, nhìn những vĩ nhân, những thiên tài cũng vẫn
thấy rất nhiều khuyết điểm mà nếu họ được thừa hưởng nền giáo dục khéo léo hơn thì nhất
định họ sẽ trở nên vĩ đại hơn, hoàn hảo hơn, và kết quả sẽ là điều mà chúng ta khó có thể đo
đếm được.
Như vậy, thuyết này sau hàng trăm năm có thể sẽ không còn đúng nữa, bởi vì khi đó tất
cả trẻ sẽ được giáo dục như nhau và ở mức tốt nhất.
III.
Witte cha đã dựa vào thuyết giáo dục ở trên để đưa ra phương pháp cho con mình. Đó
chính là phương pháp giáo dục bắt đầu từ buổi bình minh của nhận thức. Và ông tin rằng để
con mình phát huy được 80, 90 phần năng lực thì nhất định phải theo phương pháp này.
Nhưng, như đã nói ở trên, khả năng tiềm tàng của con người tồn tại theo quy tắc giảm
dần, nên khi đứa trẻ sinh ra và lớn lên, điều quan trọng nhất là không để cho khả năng tiềm
tàng mai một dần đi, tức là phải nắm bắt cơ hội phát huy khả năng đó. Giáo dục từ sớm cần
thiết là vì thế.
Tuy nhiên, để phát huy năng lực của trẻ cũng cần phải theo những trình tự nhất định mà
đầu tiên quan trọng chính là giáo dục ngôn ngữ, vì ngôn ngữ chính là công cụ để tiếp cận mọi
tri thức khác và sở dĩ con người tiến bộ hơn các động vật khác chính là ở chỗ chúng ta biết sử
dụng ngôn ngữ khác với động vật. Witte cha đã bắt đầu dạy từ ngữ cho con ngay từ khi Witte
con biết cảm nhận sự vật, và ông cũng viết rằng “Giáo dục con trẻ thì không có sự bắt đầu
nào là quá sớm”.

Lấy ví dụ đưa 1 ngón tay dứ dứ trước mặt trẻ, khi trẻ nhìn thấy sẽ nắm lấy. Đầu tiên trẻ
có thể chưa phát hiện ra và chưa nắm được, nhưng vài lần sẽ thành công. Khi nắm được rồi,
trẻ sẽ rất vui mừng và cho ngay vào miệng, lúc đó là lúc ta bắt đầu phát âm từ “ngón tay,
ngón tay” lặp đi lặp lại nhiều lần để cho trẻ nghe thấy.
Với cách làm này, Witte cha đã dạy cho con khả năng nghe chính xác từ ngữ đồng thời
với việc nhận biết được sự vật, và không lâu sau Witte con đã phát âm được tên của các vật
đó. Tiếp theo, Witte con được dạy nhận biết các đồ vật trên bàn ăn, các bộ phận của cơ thể,
quần áo, đồ nội thất, các phần trong nhà, cây cỏ ngoài sân…Các động từ, tính từ cũng dần
dần được dạy.
Trên thực tế, dạy cho trẻ nhớ được từ ngữ là điều không hề đơn giản, nhưng Witte cha
đã làm điều này rất tốt. Việc học ngoại ngữ của chúng ta cũng thế, phải bắt đầu từ những từ
đơn. Nhưng nếu học liên tục những đơn từ trong cả một quyển từ điển thì sau đó sẽ lại quên
ngay. Cách để nhớ đơn từ là ta nên đọc một cuốn sách hay, và cố gắng để nhớ từ trong sách
đó. Với trẻ con cũng vậy. Nếu cứ liên tục nhồi nhét từ ngữ thì sẽ không những ko có tác dụng
mà còn có hại. Phương pháp của Witte cha là nói những chuyện liên quan đến sự vật muốn
dạy, và đưa vào đó những từ mới và ý nghĩa của nó. Đầu tiên phải là những từ rất đơn giản,
cứ thế mỗi ngày một chút, cho con nghe và nhớ dần từng thứ một. Đối với trẻ con thì nói
chuyện là điều quan trọng nhất, vì trẻ là “người lạ” với thế giới này, và chúng cần phải biết về
mọi thứ xung quanh càng sớm càng tốt.
Nói chuyện chính là cách duy nhất mở ra thế giới cũng như làm phong phú ngôn từ cho
trẻ. Nhưng không phải chỉ nói để cho trẻ nghe, mà phải lặp đi lặp lại thì mới có hiệu quả. Kết
quả của phương pháp này là khi Witte con 5,6 tuổi đã nhớ được khoảng 30000 từ vựng. Điều
này thật sự rất đáng ngạc nhiên, vì đối với học sinh trung học, mất 5 năm học ngoại ngữ cũng
không thể nhớ được 5000 từ, thông thường chỉ khoảng 3000.
Trong cách dạy con của Witte cha có một điều mà ta không thể không nói tới. Đó là
việc ông không dạy những ngôn ngữ trẻ con, tiếng địa phương, hay những âm điệu. Ông cho
rằng dạy những thứ gâu gâu, meo meo, cạp cạp chẳng có ích gì. Trẻ từ 2 tuổi khi nghe nhiều
lần một từ chuẩn thì có thể phát âm gần chính xác từ đó. Vì thế nếu dạy gâu gâu, meo meo,
thì chẳng khác nào lãng phí thời gian của trẻ. Thay vào đó, ông dạy luôn “con chó, con mèo”
– là những từ chuẩn, ngay từ đầu. Nếu Witte phát âm đúng, ngay lập tức ông khen “Giỏi lắm,
giỏi lắm”. Nếu chưa đúng ông lại nói “Mẹ nó xem, con đang nói gì thế này”… Nhờ đó Witte
ngay từ lúc còn nhỏ đã rất biết cố gắng, và đã phát âm chuẩn được hầu hết các từ, không hề
nói ngọng, nói lắp. Kết quả này cũng là nhờ từ khi còn ẵm ngửa, Witte đã được nghe rất
nhiều những từ ngữ đúng như vậy.
Tiếp theo đó, Witte cha không dừng lại ở những từ và cách nói đơn giản, ông tiếp tục
dạy con các từ phức và cách sử dụng chúng. Để dạy được chính xác, ông và cả vợ đều phải
dùng những từ thật chuẩn, phát âm thật chuẩn, đồng thời dùng cách diễn đạt chính xác, mạch
lạc, trong sáng, bỏ hẳn những từ địa phương. Điều này giúp cho Witte không chỉ nói tốt mà
về sau còn đọc và hiểu được nhanh chóng những điều viết trong sách.
Ở nước ta, những trẻ em khoảng 10 tuổi nhưng vốn từ vựng nghèo nàn và khả năng
diễn đạt kém vẫn còn nhiều, bởi vì ngay cả giáo viên ở trường cũng như vậy. Như đã nói,
ngôn ngữ là con đường đưa chúng ta đến với tri thức. Nhưng nếu chỉ biết những từ vựng đơn
giản mà không biết cách diễn đạt thì cũng không thể đạt được mục đích. Học sinh trung học
nếu được dạy cách diễn đạt tốt ngay từ bậc tiểu học thì đến khi học ngoại ngữ sẽ nhanh hơn
và tiến bộ hơn rất nhiều
IV.
Witte cha đã bắt đầu dạy con học đọc từ 3 tuổi, và đây hoàn toàn ko phải việc vô ích.
Phương châm của ông là “Học không phải là bắt ép”. Ông luôn biết cách tạo hứng thú cho
con, sau đó mới bắt đầu dạy. Đối với việc đọc, đầu tiên ông mua tranh và sách bằng tranh của
trẻ con về, sau đó nghĩ ra những điều thú vị để nói với con, kích thích trí tò mò của con, đại
khái như “Con không biết chữ thì cuốn sách này làm sao mà hiểu được nhỉ?”, hay là “bức
tranh này nói về bao nhiêu điều thú vị, hay đến mức không ngủ được”… Thế là Witte con bắt
đầu muốn học đọc chữ, và Witte cha bắt đầu dạy. Nhưng, cách dạy chữ của ông khác với tất
cả các trường học. Trước tiên ông đi Leipzig, mua mỗi loại 10 bộ những con chữ được in cỡ
khoảng 10cm, bao gồm chữ cái tiếng Đức, La tinh, chữ số Ả Rập. Tiếp theo ông dán những
chữ đó lên các tấm bảng nhỏ cùng cỡ và dùng nó để vừa chơi vừa dạy con. Lần lượt Witte
con được dạy thông thạo tiếng Đức, rồi đến tiếng Pháp, Italia, Latinh. Trong số này thì tiếng
Đức là tiếng mẹ đẻ, tiếng Pháp và Italia cũng có nhiều điểm tương đồng. Riêng tiếng Latinh
là khó hơn cả. Ở phương Tây, khi học ngoại ngữ thường bắt đầu bằng tiếng Latinh, nhưng
Witte cha thì cho rằng điều đó là không tự nhiên. Tiếng Pháp và Italia gần gũi với tiếng Đức,
vì thế ông dạy con trước, còn tiếng Latinh là một ngôn ngữ khó, ông nghĩ cần phải có sự
chuẩn bị trước.

Khi lên 7 tuổi, Witte con được cha đưa đến 1 buổi biểu diễn âm nhạc lớn. Vào giờ nghỉ
giải lao, Witte con nhìn tấm bìa trong đó ghi lời của bản Opera và nói “Cha à, chữ trong này
không phải tiếng Pháp, tiếng Italia, chắc là chữ Latinh phải không ạ?” “Đúng rồi, con thử suy
nghĩ về ý nghĩa của nó xem”. Witte con suy diễn từ những ngôn ngữ đã học và cũng hiểu
được đôi chút, cậu bé nói “Cha à, chữ Latinh dễ thế này thì con cũng cũng muốn học trước.”
Khi đó Witte cha biết rằng có thể bắt đầu dạy con tiếng Latinh, và Witte con mất 9 tháng để
nhớ được ngôn ngữ này. Tiếp đó, cậu bé học tiếng Anh mất 3 tháng, tiếng Hi Lạp mất 6 tháng
nữa.
Chủ trương của Witte cha là “quen rồi thì sẽ nhớ”. Đối với tiếng mẹ đẻ thì đó là cách tốt
nhất. Trẻ con có thể nghe mà không chán. Người lớn thường chỉ đọc 1 quyển tiểu thuyết 1
lần, nhưng trẻ con có thể nghe đi nghe lại nhiều lần mà vẫn thích thú. Cho nên, người lớn cần
phải hướng trái tim mình theo trẻ thì mới dạy được trẻ. Witte cha rất tâm đắc với điều này khi
dạy con. Khi học ngoại ngữ cũng thế, đối với 1 câu nói ông luôn luôn cho con đọc nhiều lần ở
nhiều ngôn ngữ khác nhau, và phương pháp này đã thực sự mang lại hiệu quả.
V.
Như vậy không có nghĩa là Witte cha chỉ dạy ngoại ngữ cho con. Đối với 1 người bình
thường, việc thông thạo 6 ngôn ngữ có thể là việc phấn đấu trong cả cuộc đời. Witte lại mới
chỉ là 1 đứa trẻ, thế nên dễ khiến người ta nghĩ rằng chắc hẳn cậu bé chỉ có mỗi 1 việc là học
ngoại ngữ. Thực tế không phải như vậy. So với những đứa trẻ khác thì thời gian Witte ngồi
vào bàn học ít hơn rất nhiều. Cậu có một đời sống rất lành mạnh, vận động nhiều, vui chơi
hợp lý. Và ngoài việc thông thạo 6 ngoại ngữ, cậu còn được học cả về thực vật học, động vật
học, vật lý, hóa học, toán học.
Ngay từ khi được 3, 4 tuổi, Witte con đã được cha dẫn đi dạo mỗi ngày ít nhất 2 tiếng.
Trong thời gian đó, Witte cha vừa đi bộ vừa nói với con rất nhiều điều. Đi qua cánh đồng hoa
ông cũng phân tích cho con nghe, cái này là gi, cái kia là gì. Bắt được con côn trùng nhỏ ông
cũng giảng giải những hiểu biết của mình cho con. Từng viên đá, từng cọng cỏ đều là tư liệu
để ông giảng bài. Ông tuyệt đối không bắt ép mà luôn tạo hứng thú cho con. Ông cũng không
dạy theo hệ thống, cái này là thực vật học, cái kia lquan đến động vật học… Ông đưa những
tri thức, những hiểu biết phù hợp với những thứ mà con có hứng thú trong khi đi dạo. Nhờ đó
về sau, khi đọc sách về thực vật học, động vật học, Witte con không mất mấy thời gian để
thấu hiểu.
Bí quyết dạy của ông là tạo cho con hứng thú và khuyến khích con đưa ra những câu
hỏi, sau đó việc của ông là trả lời. Khác với chúng ta, khi con 2,3 tuổi và bắt đầu biết đặt câu
hỏi thì luôn than phiền là con ồn ào, nhiều chuyện và thường trả lời đại khái cho xong chứ
không tận tình giải thích. Chính điều này là giết chết năng lực của trẻ, để rồi khi con bắt đầu
đi học lại kêu ca “sao con mình thành tích học tập không cao…” Witte cha thì không bao giờ
như thế, ông nhất thiết không để con muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, hiểu thế nào thì hiểu, kiên
quyết không truyền đạt cho con những kiến thức sai lệch. Nếu gặp phải câu hỏi mà ngay cả
bản thân mình cũng không nắm rõ, ông cũng không ngần ngại thừa nhận mình không biết,
sau đó 2 cha con sẽ đi tìm hiểu trong sách hoặc đến thư viện. Điều này tạo cho con thói quen
tìm tòi những kiến thức chính xác, gạt bỏ thói đại khái, giản tiện trong học tập nghiên cứu.
Đối với môn địa lý, Witte cha dạy con bằng cách đưa con đi dạo vòng quanh khu làng, bằng
cách này giúp Witte con có thể hiểu được cơ bản về các vùng lân cận. Vừa hay trong làng có
một ngọn tháp cao, 2 cha con ông mang theo giấy bút, trèo lên tháp, từ đó có thể nhìn ra 4
phía. Ông giảng giải cho con phía này là gì, phía kia là gì, dựa vào đó 2 cha con cùng nhau vẽ
một bản đồ sơ lược. Sau đó họ lại tiếp tục đi dạo, dần dân vẽ thêm đường đi, rừng núi, sông
suối, dần dần hoàn thành bản đồ của các vùng lân cận. Xong xuôi ông mua 1 tấm bản đồ
chuẩn, đối chiếu với bản đồ đã vẽ, sửa lại những chỗ chưa đúng, nhờ đó Witte con đã có khái
niệm về bản đồ địa lý.
Vật lý và hóa học cũng được ông dạy theo cách tương tự.Với môn thiên văn học ông
được sự giúp đỡ của nhà quý tộc Zekkendoruf. Gọi là nhà quý tộc, nhưng thực chất người
này là một học giả. Ban đầu ông và Witte cha không quen biết, nhưng vì nghe nhiều người
đồn đại về Witte nên tìm đến xem thử. Đến nơi ông nhận thấy trình độ học lực của Witte còn
hơn cả lời đồn đại rất nhiều, và ông đặc biệt lấy làm thú vị. Ông gọi Witte con đến nhà, tận
tình chỉ bảo cho cậu bé bằng kính viễn vọng của mình. Dụng cụ nghiên cứu của ông, ngoài
những thứ liên quan đến thiên văn học còn có cả về Vật lý và Hóa học, hơn nữa còn rất nhiều
sách. Witte con được ông cho phép sử dụng tất cả chúng, nhờ đó cậu học ngày càng tiến bộ.
VI.
Điểm đáng chú ý trong phương pháp giáo dục của Witte cha là ở chỗ ông coi trọng việc
mở rộng tầm hiểu biết cho con hơn là nhồi nhét học vấn vào đầu con, và ông luôn tận dụng
mọi cơ hội để làm việc đó.
Thí dụ đứng trước một tòa nhà cao, ông sẽ nói với con đây là cái gì, là nơi họ làm
những việc gì…; đứng trước 1 tòa thành cổ ông sẽ kể lại về lịch sử của nó…Từ khi Witte con
2 tuổi, ông đã đưa con đi khắp nơi, cả từ đi mua sắm, thăm hỏi bạn bè, đến xem các buổi lễ
hội âm nhạc, vũ kịch.
Lúc rỗi rãi ông lại đưa con đi viện bảo tàng, bảo tàng mỹ thuật, vườn bách thú, bách
thảo, thậm chí cả công trường, hầm mỏ, bệnh viện, nhà dưỡng lão. Sau khi từ các nơi đó trở
về, ông để con tự nói lại tỉ mỉ hoặc kể lại cho mẹ. Vì thế ngay trong lúc đi xem, Witte rất biết
chú ý quan sát và lắng nghe lời thuyết giảng của cha cũng như của những người hướng dẫn
viên tại đó. Khi Witte 3 tuổi ông bắt đầu đưa con đi du lịch khắp nơi, và đến 5 tuổi thì cậu bé
đã đi hầu hết các thành phố lớn của Đức.
Trên đường đi 2 cha con cùng leo núi, đến các khu danh lam thắng cảnh, thăm viếng
các khu mộ cổ. Ở mỗi điểm du lịch ông đều bảo con viết thư kể cho mẹ và những người thân,
đến khi về nhà lại kể lại lần nữa. Witte cha không bao giờ tiếc tiền bạc và công sức để trau
dồi tri thức cho con, thậm chí ông sẵn sàng bỏ ra rất nhiều tiền để Witte được 1 nhà ảo thuật
cho xem bí quyết của mình. Qua đây ta có thể thấy Witte cha tâm huyết với việc nuôi dạy con
đến mức nào.
VII.
Witte cha hầu như không mua đồ chơi cho con. Ông cho rằng, trẻ không thể dựa vào đồ
chơi mà nhớ được sự vật, và cứ cho trẻ chơi đồ chơi rồi lại ném đi là 1 sai lầm. Trên thực tế
Witte con từ khi còn rất nhỏ đã biết đọc sách, quan sát sự vật, và không cần tiêu thụ thời gian
rảnh rỗi vào việc chơi đồ chơi. Thành ngữ “Nhàn cư vi bất thiện” không chỉ đúng với người
lớn mà cả trẻ con cũng vậy. Nếu cứ có đồ chơi rồi lại ném đi sẽ khiến trẻ thấy nhàm chán,
bực mình, rồi sẽ phá hỏng, rồi lại quấy khóc. Witte cha cho rằng điều đó sẽ hình thành thói ưa
phá hoại trong tính cách trẻ sau này. Ai cũng biết rằng khi trẻ chán sẽ dẫn đến bực bội, và sẽ
thường nhằm vào đồ chơi, hoặc có thể là những thứ xung quanh, dù là cái gì thì kết quả cũng
không hề vui vẻ. Sân của gia đình Witte được sửa lại để thành 1 khu vui chơi khá rộng cho
Witte, sâu 60cm, rải sỏi, xung quanh trồng nhiều loại cây và hoa. Rải sỏi là để nếu mưa cũng
sẽ nhanh khô, và có thể ngồi mà không bẩn quần áo. Ở đấy Witte con có thể tìm hiểu các loài
hoa, côn trùng. Witte cha cho rằng, gần gũi với thiên nhiên là điều quan trọng nhất trong giáo
dục.

Nói về đồ chơi, Witte con có 1 bộ là đồ dùng trong nhà bếp. Bởi vì trẻ con thường thích
bắt chước người lớn, và những công việc trong nhà bếp là cái mà trẻ đặc biệt thích nhúng tay
vào. Người lớn chúng ta thường cho rằng trẻ làm thể chỉ vướng chân, nhưng thực tế nếu làm
tốt thì cũng là 1 cách mở rộng tri thức cho trẻ. Witte cha rất quan tâm đến điều này, đó là lý
do vì sao ông chuẩn bị cho con 1 bộ đồ chơi là dụng cụ nhà bếp.
Mẹ của Witte cũng không giống như nhiều người mẹ khác. Bà thường vừa làm bếp vừa
tận tình trả lời các câu hỏi của con. Sau đó bà hướng dẫn để con làm món ăn với các đồ chơi.
Ví dụ, bà đóng vai trò người làm bếp, Witte là chủ nhà. Người làm bếp sẽ được yêu cầu làm
nhiều việc, còn chủ nhà thì đưa ra mệnh lệnh. Nếu mệnh lệnh không hợp lý thì chủ nhà sẽ bị
biến thành người làm bếp. Khi Witte thành người làm bếp thì mẹ sẽ là người ra lệnh, như là:
bây giờ sẽ làm món này, món kia, hãy ra vườn lấy nguyên liệu về… , nếu lấy sai sẽ không
được làm đầu bếp nữa. Những trò chơi có tính chất đóng kịch như thế của Witte rất nhiều, và
người chỉ đạo luôn luôn là mẹ. Hai mẹ con có lúc diễn lại những cảnh trong sách lịch sử, có
lúc lại chơi trò đi du lịch tới những nơi mà đã từng đi qua. Nhờ đó củng cố lại kiến thức về
lịch sử và địa lý cho Witte.
Mẹ Witte kể lại như thế này: “Lần đó, Karl là mẹ, còn tôi là con. Karl là người đưa ra
mệnh lệnh. Có những việc tôi cố ý làm rất tốt, có cái lại chẳng làm gì. Nếu Karl ko để ý đến
điều đó thì sẽ bị thua và không đc làm mẹ nữa. Nhưng Karl đã phát hiện ra và góp ý với tôi
rất nghiêm túc, tôi xin lỗi và hứa lần sau sẽ chú ý hơn. Sau đó tôi lại làm điều ko được phép,
Karl cũng mắng tôi giống hệt điệu bộ của tôi. Lần khác, Karl làm giáo viên, tôi làm học sinh.
Tôi cũng cố ý mắc những lỗi mà Karl hay mắc phải, và Karl cũng nghiêm khắc mắng tôi. Với
trò chơi này, Karl tránh được những việc chưa tốt thường ngày.”




Chương 5: Giáo dục James Sidis
(chương này có 1 bạn đã nhận dịch, giới thiệu về phương pháp giáo dục của Boris Sidis với
con trai mình là James Sidis.)
Chương 6: Phương pháp giáo dục của Tiến sĩ Berle.
I.
Chương trước đã giới thiệu với độc giả về phương pháp giáo dục của Tiến sĩ Sidis, vốn
là một người Nga nhập quốc tịch Mỹ. Chương này giới thiệu về Tiến sĩ Berle, cũng không
phải người Mỹ mà là người Đức.Tiến sĩ Berle, mới đây (1914) là giảng viên của môn thần
học tại trường ĐH Taft, hiện đã chuyển sang làm mục sư ở Boston (ông đã mất năm 1971.)
Như đã giới thiệu ở chương 1, ông có viết cuốn “Trường học gia đình” trong thời gian
giảng dạy ở trường ĐH Taft (1912). Về nội dung cuốn sách đó thì những người đã đọc đến
chương này ắt hẳn cũng đã hình dung được, vì thế tôi sẽ không đi vào chi tiết nữa. Nhưng có
một điều đáng nói là cuốn sách này ngay sau khi được xuất bản đã có hàng trăm lá thư gửi
đến đề nghị ông miêu tả kỹ hơn về phương pháp giáo dục của mình. Khi đó ông rời trường
ĐH và mở khóa học về Trường học gia đình, sức ảnh hưởng của nó vượt xa cả tưởng tượng,
những người quan tâm nhiều đến mức cần phải được mở rộng ra trên phạm vi thế giới. Năm
ngoái (1913), ông đã xuất bản tiếp cuốn “Giáo dục trong gia đình”, viết về rất nhiều bài học
cho trẻ nhỏ. Ở đây tôi xin trình bày sơ lược về cả hai cuốn sách trên.
II.
Tiến sĩ Berle trong sách của mình đã chỉ ra rằng cần phải giáo dục ngôn ngữ cho trẻ
ngay từ sớm, vì ngôn ngữ là con đường đưa trẻ đến với các tri thức khác. Ông nhấn mạnh,
giáo dục ngôn ngữ không phải là dạy hời hợt mà là phải dạy triệt để, tức là phải phát âm rõ
ràng và giúp trẻ ghi nhớ chính xác. Cũng giống Witte-cha, ông tẩy chay từ địa phương và từ
hình tượng. Dù các từ đó có thể trẻ dễ phát âm hơn, nhưng kể cả đối với những từ chuẩn, nếu
cố gắng dạy thì trẻ 2 tuổi hầu hết có thể nói được. Dạy trẻ học cũng cần quan tâm đến khái
niệm chi phí trong kinh tế. Với trẻ, nhớ từ chuẩn hay từ hình tượng thì cũng mất công như
nhau, nên nếu dạy những từ không sử dụng sau này tức là đã làm cho trẻ phải mang gánh
nặng gấp 2 lần. Có những đứa trẻ đến 14, 15 tuổi mà vẫn không biết phát âm chính xác, đó là
lỗi của cha mẹ chúng. Nhìn vào các trường tiểu học ngày nay, các giáo viên thay vì có thể
làm nhiều thứ có ích hơn lại mất rất nhiều thời gian để sửa thói quen xấu cho trẻ. So với việc
học cái mới thì điều này vất vả hơn nhiều. Nhưng, có rất nhiều bậc cha mẹ, khi thấy con mình
phát âm sai, dùng sai từ thì lại lấy đó làm thú vị, rồi bản thân mình cũng bắt chước, như thế là
làm hỏng con.
Tiến sĩ Berle, giống như Witte-cha, cũng rất cố gắng nói cho con nghe để làm phong
phú vốn từ. Nhưng không phải chỉ nói mà sau đó còn bảo con lặp đi lặp lại nhiều lần, như vậy
có thể sửa được những lỗi phát âm hay dùng từ cho con. Từ ngữ mà ông dạy cho con cũng là
những từ có nhiều trong sách, để sau đó khi con đọc sách có thể dễ dàng hiểu được. Ngoài ra
ông còn chọn lựa sách hay để đọc cho con. Ở nước ta thì không mấy sử dụng, nhưng ở các
nước Âu Mĩ thì kinh thánh là một cuốn sách rất được quý trọng. Berle cho rằng, để dạy trẻ thì
không có gì tốt hơn là Kinh thánh. Và nếu hàng ngày đọc cho con nghe sách kinh thánh bằng
tiếng Anh là tốt nhất, điều này không chỉ giúp trau dồi từ vựng mà còn có ý nghĩa giáo dục
nhân cách rất lớn. Nhưng với nước ta, Kinh thánh bản dịch rất khó hiểu, và trẻ sẽ không thể
tiếp thu được. Để đơn giản hơn thì có thể đọc thơ – các bài thơ dễ hiểu cũng rất có ích với trẻ.

III.
Theo Berle, để huấn luyện trí não cho trẻ thì tốt nhất là dạy ngôn ngữ. Ông đã dạy cho
con tiếng Anh , rồi tiếng Đức, Latinh, Hy Lạp, Do thái, từ rất sớm. Ông cho rằng việc dùng
chính xác từ ngữ là cơ sở để có suy nghĩ đúng đắn. Đặc biệt, việc dạy trẻ nhiều thứ tiếng sẽ
giúp trẻ hiểu được sâu sắc hơn ý nghĩa của từ ngữ, và sẽ mang lại hiệu quả rất lớn trong cách
suy nghĩ của trẻ. Về cách dạy ngoại ngữ cho trẻ cũng cần có khá nhiều lưu ý đã được nêu rõ
trong cuốn “Giáo dục gia đình”, vì thế ở đây sẽ không đề cập nữa.
Tiếp theo, Berle cũng nói về vấn đề nuôi dưỡng tinh thần. Theo lời ông, tinh thần cũng
cần phải được nuôi dưỡng như thể chất. Món ăn của tinh thần chính là tri thức. Việc lựa chọn
những tri thức dễ tiếp thu cho bộ não cũng giống như việc chọn những thức ăn dễ tiêu hóa
cho dạ dày của trẻ. Nếu không bồi dưỡng tri thức mà mong đợi tinh thần phát triển thì chẳng
khác nào câu cá ở trên cây.
PHƯƠNG PHÁP bồi dưỡng tri thức cho con của Berle được áp dụng trong bữa ăn và
khi vui chơi. Ông lựa chọn một đề tài dễ hiểu và nói cho con nghe, khích lệ con đặt câu hỏi,
khi đó ông vừa trả lời vừa cung cấp thêm các kiến thức cho con. Đề tài được chọn có thể là
vể đồ vật trên bàn ăn, về một bài báo, về những thứ xung quanh, hay về một quyển sách mới
đọc. Việc bồi dưỡng tinh thần này thực sự sẽ làm nên những kỳ tích không ngờ. Berle kể:
“Có một người lao động làm việc ở ngay cạnh cổng nhà tôi, hàng ngày khi ra khỏi nhà tôi vẫn
thường chào hỏi ông ấy. Bữa nọ ông ấy bày tỏ với tôi một mối lo ngại, đó là việc ông hoàn
toàn bất lực với đứa con đang học tiểu học của mình. Tôi bèn tới trường và nói chuyện với
đứa bé đó. Quả thực thành tích của nó rất tệ, đến mức có thể không được lên lớp. Kỳ nghỉ hè
năm đó tôi đã một mình giáo dục nó, đến tháng 9 năm đó đứa trẻ đó đã vào được trung học,
sau đó tốt nghiệp, vào trường Luật và trở thành một Luật sư tài năng.”
Berle nhấn mạnh rằng, để trẻ bị lãng phí thời gian vào những việc vô ích là việc rất
không tốt, vì thế phải các bậc cha mẹ phải theo dõi và giúp con sử dụng hiệu quả thời gian
của mình.
IV.
Tiến sĩ Berle có nói, vấn đề quan trọng nhất trong giáo dục con cái là không được đánh
giá thấp con mình. Cũng giống như Witte-cha, ông thừa nhận rằng sự khác biệt về thiên bẩm
giữa các đứa trẻ là có thực, song không đáng kể, và cũng không cần thiết phải đo đếm. Trong
khi dạy con, ông khuyến khích con ghi chép lại những việc đã xảy ra, trong đó có cả những
việc được khen ngợi cũng như những chuyện vì thế mà bị mắng, cả những điều mang lại
hứng thú cũng như những việc không vui, như thế điều gì đã biết, điều gì chưa từng trải qua
đều rõ ràng, hơn nữa qua đó còn có thể dạy con thêm nhiều từ ngữ mới. Không những thế,
điều này còn giúp phát huy đức tính tốt, bài trừ thói quen xấu, đồng thời thực hiện được mọi
việc theo kế hoạch đã đề ra một các có hiệu quả. Nếu như không có nó thì hàng ngày trôi qua
sẽ chỉ giống như một chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả không biết đâu là bờ… Việc ghi
chép này nghe qua thì có vẻ hơi khó khăn, nhưng thực tế khi thực hiện lại rất thú vị. Nó cũng
tựa như mỗi buổi sáng thức dậy ta soi mình trong gương và nhận ra sự thay đổi trên gương
mặt, hay nói cách khác, nó mang dư vị của niềm hạnh phúc khi nhìn thấy sự trưởng thành sau
những gì đã trải qua…
Sau cùng, Berle hết sức hoan nghênh những người làm cha mẹ đã nhẫn nại, nhiệt tình,
không mệt mỏi trong việc giáo dục con cái. Trên đời này chẳng có ai giám sát việc dạy bảo
con của cha mẹ, cho nên những việc phải làm có khi lại không được làm và ngược lại, dẫn
đến chỗ rất dễ phạm sai lầm. Vì thế, các bậc cha mẹ phải kiên tâm, nhẫn nại, nỗ lực thực hiện
các kế hoạch, các dự định nuôi dạy con của mình cho tốt nhất.
Chương 7: Phương pháp giáo dục của Stoner.
I.
Trong số những người đã đọc cuốn “Giáo dục Karl Witte” và áp dụng thành công với
con mình còn có một người nữa, đó là Phu nhân Stoner. Bà hiện là giảng viên môn ngữ học
tại ĐH Pittsburgh, bang Pennsylvania, USA. Bà xuất thân từ trường nữ học Radcliffe, và
người đầu tiên đưa đến khái niệm Giáo dục sớm cho bà chính là Tiến sĩ James. Ông cũng là
người đã giới thiệu cho bà cuốn sách của Witte –cha.
Con gái độc nhất của bà là Winifred hiện nay 14 tuổi, cô bé biết làm thơ từ năm lên 3, 4
tuổi đã biết viết kịch bằng tiếng Esperanto. Các tác phẩm của cô được đăng lên các báo và tạp
chí khi mới 5 tuổi, sau đó được xuất bản thành tập và được đánh giá rất cao.
Vào năm con gái được 12 tuổi, Stoner viết cuốn Giáo dục tự nhiên kể về phương pháp giáo
dục của mình. Tôi xin giới thiệu khái quát cuốn sách khá thú vị này.
II.
Tôi bắt đầu giáo dục con bằng việc huấn luyện 5 giác quan. Vì nhiều khả năng của trẻ
nếu không được sử dụng thì sẽ vĩnh viễn mất đi, nên phải tập cho trẻ sử dụng 5 giác quan
càng sớm càng tốt. Trong 5 giác quan đó thì trước hết phải phát triển thính giác. Người mẹ
hát cho con nghe là việc rất có ích, nhưng tiếc thay tôi lại không biết hát. Sau đó tôi nhớ ra
tập thơ Aeneis của Vergilius có âm điệu rất hay, bèn đọc cho con nghe.
Kết quả đúng như tôi nghĩ, khi nghe Aeneis, con gái tôi từ từ chìm vào giấc ngủ. Tôi
thử áp dụng với những trẻ khác thấy cũng như vậy. Có nhiều bài hát ru có hại cho tai của trẻ,
nhưng Aeneis thì không. Đó là 1 bản thiên anh hùng ca của Vergilius, và nó thực sự cũng là 1
bài hát ru tuyệt vời.
Khi con được 6 tuần, tôi bắt đầu đọc các bài thơ bằng tiếng Anh cho con nghe. Khi đó
tôi phát hiện ra 1 điều thú vị là khi âm điệu của bài thơ thay đổi, Winifred cũng biểu hiện
những phản ứng khác nhau. Chưa đầy 1 tuổi bé đã thuộc 10 dòng trong tập 1 của Aeneis và 1
bài thơ khác. Đây không phải là do tôi cố ý dạy mà là do bé tự nhiên nhớ được. Bé đặc biệt
thích bài Crossing the Bar, đến cả khi ngủ cũng lẩm nhẩm đọc.Cứ như vậy, tôi cho con nghe
nhiều bài thơ nổi tiếng khác.
Để hướng đến khái niệm về tiết tấu 7 nốt đô, rê, mi, fa, son, la, si, tôi mua bảy chiếc
chuông nhỏ, buộc vào đó 7 dải lụa màu đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím và đặt tên cho
chúng. Sau đó hàng ngày tôi gõ cho con nghe. Chưa đầy 6 tháng bé đã biết gõ chuông theo
đúng màu mà tôi bảo. Như vậy bé đã đồng thời thu nhận được khái niệm về tiết tấu và màu
sắc. Thi thoảng tôi lại mang lăng kính ra, chiếu lên tường 7 màu cầu vồng cho con xem, bé
rất lấy làm thích thú, nếu đang khóc cũng sẽ nín ngay.

Trong phòng của con, tôi treo nhiều tranh của các danh họa và bày những tác phẩm điêu
khắc nổi tiếng. Khi con còn rất nhỏ, tôi đã vừa bế vừa chỉ cho con đây là bàn, đây là ghế,…
cứ thế tất cả các đồ đạc trong phòng, cả các bức họa và các tác phẩm điêu khắc cũng vậy.
Mới đầu bé chỉ chú ý đến màu sắc của tranh nhưng sau cũng dần dần hiểu được ý nghĩa.
Ngoài ra tôi cũng cho con xem nhiều bức tranh đẹp về hoa lá, chim muông. Từ khi bé
còn chưa biết gì, tôi cũng mua những cuốn sách tranh cho con xem và đọc cho con nghe. Mặc
dù chưa hiểu được nhưng bé rất hứng thú với màu sắc trong tranh và giọng nói của mẹ, nên
lắng nghe rất chăm chú. Trẻ được nuôi nấng bởi một người mẹ biết vẽ tranh cũng là điều may
mắn. Tôi thường vẽ những bức tranh về con kèm với nhiều câu chuyện thú vị, điều này có tác
dụng lớn trong việc mở mang tri giác cho con. Hiện nay trên các báo thường cho đăng những
mẩu truyện tranh với nhiều hình vẽ không lành mạnh, rất có hại cho con trẻ. Loại tranh
truyện này không cho con xem thì hơn.
Để phát triển khả năng cảm nhận màu sắc của con, tôi mua những cuộn chỉ màu thường
dùng trong các bài kiểm tra sự mù màu để làm công cụ cho con chơi nhiều trò chơi thú vị.
Tôi đặc biệt khuyến khích các bà mẹ có con trai cho con chơi những trò chơi kiểu này, vì so
với bé gái thì bé trai có xúc giác tốt hơn nhưng lại kém hơn về khả năng cảm nhận màu. Vì
thế nếu không cố gắng tập cho các bé trai khả năng đó thì khái niệm màu sắc về sau sẽ rất
chậm chạp. Ngoài ra tôi còn mua những viên đá và các mảnh gỗ nhỏ có nhiều màu sắc cho
con chơi. Búp bê của bé tôi cũng chọn loại có nhiều quần áo đẹp. Những thứ này rất có tác
dụng trong việc phát triển khả năng cảm nhận màu của bé.
Bút màu cũng là 1 công cụ rất hay. Tôi và con thường hay chơi trò “Thi vẽ màu”.
Chúng tôi dùng 1 tờ giấy trắng khổ lớn và người bắt đầu là tôi. Đầu tiên tôi sẽ lấy bút, giả sử
là màu đỏ, vẽ 1 đoạn thẳng khoảng 3cm , sau đó đến lượt Winifred cũng sẽ làm như vậy. Nếu
tôi vẽ màu xanh thì bé cũng phải vẽ màu xanh. Nếu vẽ sai sẽ bị thua cuộc.
Khi con biết đi, trong khi cùng con đi dạo, tôi chỉ cho bé các màu của biển, của cây cối,
của bầu trời, nhà cửa, quần áo người đi đường,…để giúp bé nhận biết tốt hơn.
Thỉnh thoảng chúng tôi còn chơi một trò chơi như thế này: Khi đi qua cửa hàng nào đó một
đoạn, tôi sẽ hỏi con xem cửa sổ trưng bày của cửa hàng có những thứ gì, nếu bé không nhớ
được hoặc nhớ ít hơn tôi sẽ bị thua. Trò chơi này vừa có tác dụng phát triển trí nhớ, vừa nâng
cao khả năng tập trung của trẻ. Nhờ được luyện tập như vậy, lúc bé lên 5 tuổi đã khiến các
giảng viên trường ĐH Shotokan phải kinh ngạc khi chỉ đọc 1 lần bài The Battle Hyun of the
Republic là đã có thể lặp lại chính xác toàn bộ.
Tôi cũng tập cho con thói quen chú ý quan sát đồ vật. Một lần vào lúc lên 2 tuổi, khi đi
cùng tôi đến cửa hàng bán các tác phẩm điêu khắc, bé xem và nói với người bán hàng: “Chỗ
cô không có bức Venis de Milo, không có cả bức Venis de Medici nữa nhỉ?”
Khi Winifred được 6 tuần tuổi, bé được cha mua cho một quả bóng bay màu đỏ. Tôi dùng
một sợi chỉ buộc vào ngón tay cho bé, mỗi lần đưa tay lên xuống là quả bóng cũng bay lên
bay xuống rất vui. Tuần sau tôi lại thay bằng quả bóng màu khác. Cứ thế, tôi dễ dàng dạy cho
cháu các tính từ như xanh, đỏ, tròn, nhẹ,… Với các đồ chơi như mảnh gỗ có dán giấy nhám,
tôi lại dạy cho cháu các tính từ: thô ráp, mềm mại…

Trẻ nhỏ thường có cái gì cũng cho vào miệng, vì thế nếu không chú ý ngay từ đầu thì sẽ
không bỏ được thói quen này. Khi Winifred chưa đầy 2 tuổi, trong một lần chúng tôi tới thăm
nhà một người bạn và được cô ấy mang rất nhiều bánh kẹo ngon lành ra mời, bé mới hỏi tôi:
“Mẹ ơi, những thứ này có thể cho vào miệng được chứ ạ?”. Cô bạn tôi lúc đó rất lấy làm ngạc
nhiên.
Một điều nữa, là khi giáo dục con, tôi không hề bắt con làm việc gì nặng nhọc quá sức.
Trẻ là một cá thể sống và cần liên tục giải phóng năng lượng để hoạt động. Tôi luôn cố gắng
không lãng phí năng lượng này một cách vô ích để nó có thể tập trung hiệu quả vào việc phát
triển năng lực của con. Nếu làm được điều đó, trẻ sẽ luôn có việc gì đó để theo đuổi, không bị
nhàn rỗi tay chân dẫn đến buồn chán, bực dọc, quấy khóc.
III.
Trẻ khi còn nhỏ đã biết hướng sự chú ý đến nơi có tiếng người nói cũng như có âm
thanh của sự vật, vì thế hoàn toàn có thể dạy ngôn ngữ từ sớm. Từ lúc con còn ẵm ngửa, tôi
đã nói chuyện với bé như thể bé có thể hiểu được mọi điều. Không giống phần lớn các bà mẹ,
tôi không dùng từ hình tượng mà luôn dạy con những từ chuẩn ngay từ đầu. Tôi được biết hai
người, là giảng viên đại học có tiếng nhưng lại thường xuyên phát âm sai và dùng sai ngữ
pháp, đó chắc chắn là vì lúc nhỏ không được giáo dục tốt về mặt ngôn ngữ. Vì thế tôi luôn cố
gắng hết sức để dạy con những ngôn từ chính xác, trong sáng. Bên cạnh đó tôi còn chú ý dạy
con cả các thành ngữ, tục ngữ.
Theo cách của Witte- cha, tôi thường bế con trên tay, đi quanh phòng và chỉ cho bé mọi
vật, nhờ đó khi được 1 tuổi bé đã có thể nói được hầu hết mọi thứ. Nhiều người lấy làm ngạc
nhiên, nhưng chồng tôi thì bảo: “Em đã dạy con ngay từ khi mới sinh ra, bây giờ con làm
được như thế là đương nhiên rồi!”
Tôi tin rằng sự giáo dục ngôn ngữ lúc nhỏ sẽ ảnh hưởng trong suốt cuộc đời, vì thế tôi
luôn nhắc nhở con phát âm chính xác, sử dụng những từ ngữ và câu văn một cách chọn lọc.
Nhưng tôi lại không dạy ngữ pháp cho con cho đến tận năm 8 tuổi. Tôi thấy rằng dạy ngôn
ngữ thì không nhất thiết phải dựa trên ngữ pháp mà là dựa vào miệng và tai của trẻ.
Trẻ nhìn chung rất thích nói, từ lúc rất nhỏ hễ nhớ được từ nào là liên tục lặp đi lặp lại và tỏ
ra vui thích. Nắm bắt được đặc điểm này, tôi tập cho con nhớ những câu ngắn, đơn giản mà
vẫn thú vị. Bé nhớ rất nhanh và rất lấy làm hứng thú. Sau đó tôi thử dịch những câu này ra
nhiều ngoại ngữ khác, bé đều dễ dàng nhớ được. Suy từ kinh nghiệm của chính mình, tôi thấy
rằng trong một đời người, giai đoạn từ 1 đến 5 tuổi là giai đoạn bộc lộ năng lực ngôn ngữ lớn
nhất. Tôi cũng đã nghĩ đến việc dạy con những ngoại ngữ cơ bản càng sớm càng tốt, nhưng
ngoài tác phẩm Aeneis ra, cho đến khi con thành thạo tiếng mẹ đẻ, tôi không dạy thêm ngoại
ngữ nào. Nhiều học giả nói rằng nên đồng thời dạy cho trẻ 2, 3 thứ tiếng, nhưng tôi thấy như
thế là làm khổ con và có thể con sẽ không giỏi được ngôn ngữ nào.
Khi Winifred đã sử dụng tốt tiếng Anh, tôi bắt đầu dạy bé tiếng Tây Ban Nha. Lý do tôi
chọn tiếng TBN là vì trong các ngôn ngữ châu Âu thì đây là thứ tiếng đơn giản nhất. Kết quả
là đến 5 tuổi, bé đã thông thạo 8 thứ tiếng. Nếu tiếp tục dạy, tôi nghĩ bé có thể học được 10,
12 ngôn ngữ. Nhưng đúng vào thời điểm đó, tôi nghe rằng sau này tiếng Esperanto sẽ trở
thành ngôn ngữ quốc tế, nên tôi dừng lại.
4 tuổi, Winifred đã đọc được sách bằng tiếng Esperanto, tự nói và viết được. Trong năm
này, bé bắt đầu có kế hoạch viết kịch bằng ngôn ngữ này. Và với sự trợ giúp của bà Julia
Beabawer, vở kịch đã hoàn thành và được trình diễn . Đây cũng là vở kịch tiếng Esperanto
đầu tiên được công diễn trên toàn quốc.
5 tuổi, Winifred bắt đầu dạy tiếng Esperanto cho những trẻ khác. PHƯƠNG PHÁP dạy
dựa trên những trò chơi mà tôi đã áp dụng khi dạy bé, ngoài ra bé còn tự mình nghĩ ra những
trò mới khá thú vị. Cũng trong năm đó, tôi có nhiều buổi giảng ở ĐH Shotokan nhằm phổ
biến tiếng Esperanto. Với mục đích giúp người nghe biết rằng học tiếng Esperanto rất đơn
giản, tôi để Winifred nói chuyện và ngâm thơ bằng thứ tiếng này, bé được mọi người hết sức
tán thành.
Từ Shotokan trở về, Winifred viết thư cho một người bạn nước ngoài biết tiếng Esperanto.
Tên và địa chỉ của người bạn này được bé tìm thấy trong 1 tờ báo tiếng Esperanto. Không lâu
sau có thư trả lời từ nước Nga, bé rất đỗi vui mừng. Bé trở nên hứng thú đặc biệt với nước
Nga và tìm đọc rất nhiều sách Nga. Sau đó bé lại kết bạn với trẻ em Nhật, Indo, và bắt đầu
nghiên cứu về địa lý cũng như phong tục của các nước này. Tôi nghĩ rằng việc giao lưu giữa
các trẻ em như vậy rất có ích, ngoài việc mở rộng kiến thức, sẽ dần dần làm cho các nước
xích lại gần nhau, cùng xây dựng một cộng đồng hòa bình.

Hiện tại Winifred đang là hội trưởng của Hiệp hội thiếu niên Mỹ vì hòa bình. Hội viên
ở đây có nhiệm vụ học tiếng Esperanto và dùng nó để kết giao với các thiếu nhi nước ngoài
qua thư. Mỗi tháng sẽ chọn một bức thư để đọc. Lần lượt mỗi hội viên sẽ đứng ra thuyết trình
bằng đèn slide về địa lý và phong tục của 1 quốc gia. Các hội viên sẽ trao đổi với thiếu nhi
nước khác các vật lưu niệm như bưu thiếp, tem, hoa khô,… Với Winifred, các thứ quà này
chất cao như núi, vì cô bé đã kết bạn được với hầu hết trẻ em trên khắp thế giới. Trong số đó,
có một món quà khá thú vị là cuốn lịch sử Trung Quốc viết bằng tiếng Esperanto khoảng 5
nghìn từ được một thiếu niên TQ gửi đến. Sách lịch sử của một quốc gia do chính người nước
đó viết có nhiều thứ rất khác với sách của người nước ngoài viết. Ở nước ta, sách về lịch sử
TQ, Nhật Bản là do người Mỹ tới đó vài ba tháng viết ra, cho nên nếu chỉ đọc nó thì cũng
như chưa biết gì về lịch sử của họ.
Khi Winifred 5 tuổi đã biết dịch nhiều bài hát nhỏ sang tiếng Esperato. Bé nghĩ rằng
những bài hát này rất hay, vì thế nếu dịch ra thì sẽ có rất nhiều trẻ em biết và yêu thích.
Những bài hát này đã được hiệp hội Esperato xuất bản thành sách và được rất nhiều lời khen
ngợi. Một giảng viên ngữ học của trường ĐH Standford nhận xét: “Tuyển tập này sử dụng
ngôn ngữ của những dịch giả chuyên nghiệp, lại có cả chất thơ của những thi nhân, không thể
tin là lại được viết bởi một bé gái 5 tuổi.”
Hiện Winifred nổi tiếng là giáo viên trẻ nhất của Pittsburgh. Học trò của cô bé gồm các
trẻ em từ 5 đến 14 tuổi. Phòng học là phòng giáo viên của Sở nghiên cứu Carnegie.
PHƯƠNG PHÁP dạy là dùng các bài hát vè và các trò chơi, thi thoảng đi thực tế tại viện bảo
tàng. Để có thể dạy được, cô bé đã đọc và tra cứu rất nhiều sách tham khảo. Trong khi dạy
tiếng Esperato, Winifred đã sử dụng một phương pháp mới, đó là hát những câu văn tiếng
Esperato theo giai điệu của các bài hát quen thuộc mà ai cũng biết. Tôi cũng áp dụng phương
pháp này với các học sinh ở Pittsburgh và thấy thực sự hiệu quả. Winifred còn tự mình viết
sách bằng tiếng Esperato cho các học trò sử dụng, đây cũng là 1 tài liệu rất tiện lợi được
nhiều người tham khảo.
IV.
Tiến sĩ James, người đầu tiên đưa đến cho tôi khái niệm về giáo dục sớm, vẫn thường
bảo rằng phải huấn luyện về tinh thần cho con càng sớm càng tốt, và sự huấn luyện này phải
thực hiện dựa trên các trò chơi.
Chơi là 1 bản năng của động vật. Mèo con thì chơi đuổi bắt với cái đuôi của mẹ, chó
con lại bắt chước tiếng sủa của mẹ. Tại sao lại như vậy? Là bởi vì mèo cần được phát huy khả
năng đuổi bắt con mồi trong tương lai, và chó thì cần phải sủa để dọa con mồi.
Con người cũng vậy, lúc nhỏ phải được lựa chọn để chơi các trò chơi giúp phát huy các khả
năng cần đến khi lớn lên. Vì thế các bậc cha mẹ không được thả cho con chơi tự do mà phải
chơi cùng con, giống như các loài động vật. Chơi với con cũng chính là để giúp mình rèn
luyện ý thức đạo đức của bản thân và khả năng thấu hiểu người khác.

Tôi cũng áp dụng rất nhiều hình thức chơi với con. Đầu tiên, khi Winifred được 6 tháng
tuổi, trong phòng con, ở độ cao dưới 1m tôi dùng toàn bộ giấy dán tường màu trắng. Trên đó
tôi cắt các con chữ màu đỏ dán lên. Bức tường khác tôi lại dán các chữ đơn giản: bat, cat,
mat, pat, rat, bog, dog, hog, log, thành từng hàng. Bức tường thứ 3 tôi lại dán các con số tự 1
đến 10 thành 10 hàng. Bức còn lại tôi dán các nốt nhạc. Nhưng so với việc nhìn thì thói quen
nghe sẽ thu hút sự chú ý của trẻ hơn, vì thế tôi muốn cho con làm quen với việc nghe các chữ
ABC. Tôi thì không biết hát, nhưng may sao nhũ mẫu lại hát rất hay, vì thế tôi vừa chỉ các
chữ, nhũ mẫu vừa hát. Đối với đứa trẻ 6 tháng tuổi, lần đầu nghe những thứ này chẳng khác
nào đàn gảy tai trâu, nhưng thường xuyên nghe, thường xuyên nhìn, chẳng mấy chốc bé đã
nhớ được bảng chữ cái.
Tiếp đó, tôi lại làm các miếng gỗ to nhỏ trên đó có viết các chữ cái và bắt đầu dạy con
ghép từ. PHƯƠNG PHÁP dạy như sau: trước tiên cho bé xem bức tranh con mèo, rồi lại chỉ
lên chữ cat trên tường, và lặp đi lặp lại nhiều lần tiếng cat cho con nghe; sau đó chọn trong
hộp chữ cái từng chữ c,a,t, ghép lại thành cat. Cứ thế 2 mẹ con vui vẻ chơi với nhau, và tôi
thường khen ngợi để động viên con. Hàng ngày như vậy, từng bước một, từng chút một,
không nhồi nhét quá sức.
Với cách dạy này, Winifred chưa đầy 1 tuổi rưỡi đã có thể đọc sách. Khi đó việc giáo
dục lại càng thú vị. Đọc được sách có thể ví như thuyền đã đến ngày ra sông lớn, bé rất lấy
làm vui mừng.
Tôi hướng cho Winifred thói quen đọc sách có mục đích. Đọc sách cũng như làm việc,
nếu không có mục đích sẽ làm tổn hại cả tinh thần và thể lực. Khi viết cuốn Journeys with
Fairy Christmas, bé đã đọc hơn 30 cuốn sách tham khảo các loại để tìm hiểu về phong tục
trong lễ Giáng sinh của các quốc gia.
Tôi cũng nghiệm ra rằng biết thưởng thức âm nhạc quả là 1 điều hạnh phúc. Vì thế khi
con gái mới sinh ra chưa lâu, tôi đã mua những chiếc chuông nhỏ phát ra các âm do,re,mi…,
và mỗi ngày tôi lại đàn những ca khúc nổi tiếng. Nhũ mẫu thì thường hát cho bé nghe, không
khí trong nhà lúc nào cũng rộn rã. Sau khi bé nhớ được bảng chữ cái, tôi bắt đầu dạy các nốt
nhạc. Chúng tôi chơi 1 trò chơi như thế này: Tôi giấu một số đồ vật đi và để con đi tìm, còn
tôi sẽ chơi piano. Khi bé đến gần chỗ giấu đồ, thay vì nói “nguy quá, nguy quá”, tôi sẽ chơi
những âm trầm. Khi bé ra xa, tôi lại chơi những âm cao. Như thế, nếu không chú ý đến các
âm cao thấp thì bé sẽ không thể tìm ra món đồ. Cách chơi này rất hiệu quả trong việc huấn
luyện thính giác cho bé.
Trẻ con rất thích các nhịp điệu. Khi bé còn chưa biết nói, tôi vỗ tay theo nhịp điệu cho
bé xem. Rồi tôi mua một chiếc trống nhỏ và bắt đầu dạy bé đánh theo nhịp. Sau đó tôi lại
mua cây mộc cầm cho bé đánh. Tiếp đên tôi vừa chỉ các nốt nhạc trên tường, tôi vừa hướng
dẫn bé gõ các phím trên piano. Rất nhanh chóng, bé có thể gõ được các nốt nhạc và bản nhạc
đơn giản.
Tôi còn dạy con nhún nhảy theo nhịp. Với trẻ con, khái niệm về nhịp điệu và cung bậc
âm nhạc rất quan trọng. Các bà mẹ không biết đàn, hát thì có thể cho con nghe từ đĩa. Trẻ
nhất thiết phải được lớn lên trong môi trường âm nhạc với các nhịp điệu và tiết tấu. Mưa rơi
cũng có nhịp điệu, gió thổi cũng có âm thanh.Thế nên người Nhật mới hay treo chuông gió
trong nhà, điều này rất tốt cho trẻ. Ở nước ta có khoảng 1/3 là không biết thưởng thức âm
nhạc, nhưng cuộc sống mà không có âm nhạc thực sự là điều bất hạnh. Ngoài âm nhạc, tôi
còn thường xuyên ngâm thơ cho con nghe. Tôi cũng dạy con múa theo bài hát. Có nhiều
người cho rằng nhảy múa là không tốt, nhưng tôi ko nghĩ vậy. Tiến sĩ Berle có nói: “Sở dĩ
người Hi Lạp, Rôma có thân hình đẹp là nhờ nhảy múa. Múa giúp ta duy trì thể lực tốt và
thân hình cân đối.”

V.
Trẻ phải được tiếp xúc với âm nhạc từ khi còn trong nôi, nhưng ở nước ta phải đến 7, 8
tuổi trẻ mới được dạy bảo về âm nhạc. Chính vì thính giác không được huấn luyện sớm nên
về sau không thể giỏi được, thậm chí việc học nhạc còn rất đỗi khổ sở. Hơn nữa, khi bắt đầu
dạy lại không đi từ các bài hát mà đi vào luyện ngay kỹ năng nên trẻ càng chán. Đành rằng kỹ
năng là quan trọng, nhưng không thể vì thế mà khiến trẻ mất đi hứng thú với âm nhạc.
Trẻ nói chung thích được chạm vào những thứ như piano, vì thế cần khích lệ trẻ động đến
nhạc cụ. Và nếu được cha mẹ giúp đỡ, chúng có thể tự nghĩ ra những khúc nhạc. Winifred từ
nhỏ đã tự mình viết ra một vài khúc nhạc, cái đó cũng giống như những bức ảnh chụp khi còn
bé, sau này nhìn lại thấy rất ngộ nghĩnh.
Tôi dạy nhạc cho con cũng dưới hình thức một trò chơi, ban đầu là piano, sau là violin.
Hiện nay Winifred chơi tốt cả 2 loại nhạc cụ này. Đương nhiên trong số chúng ta, không phải
cứ 10 người được học nhạc thì cả 10 đều thành nhạc sỹ, hơn nữa điều đó cũng không cần
thiết. Nhưng, đã sinh ra trên đời, không biết chút gì về âm nhạc thực sự là một điều bất hạnh.
Không nhất thiết phải biết chơi nhạc, nhưng cần cảm nhận được âm nhạc. Nhiều người cho
rằng, vì không có ý định để con thành nhạc sỹ nên ko dạy về âm nhạc, đó là suy nghĩ một
chiều. Không chỉ riêng âm nhạc, nếu cuộc sống mà không có nghệ thuật sẽ chẳng khác nào
cuộc sống hoang dã. Vì vậy tôi nghĩ rằng, để cuộc đời trẻ sau này được phong phú, được
hạnh phúc, người làm cha mẹ có nghĩa vụ bồi đắp những kiến thức cơ bản về âm nhạc và văn
học cho trẻ.
Tiếp theo tôi sẽ trình bày về phương pháp dạy chính tả. Để dạy chính tả thì tốt nhất là
sử dụng máy đánh chữ. Tôi ngẫu nhiên phát hiện ra điều này trong một lần Winifred nhìn
thấy tôi đang đánh máy và chạy lại đòi tôi hướng dẫn cách dùng. Khi đó tôi đang rất bận nên
hẹn bé ngày mai. Hôm sau tôi lại có việc phải ra ngoài, khi trở về bé đưa cho tôi một tờ giấy.
Đó chính là 1 trang trong quyển truyện cổ được bé đánh máy lại. Bản đánh máy này gồm toàn
những con chữ to, không có dấu cách, chỉ là chữ được gõ lại. Nhưng tôi rất vui và khen bé,
sau đó bắt đầu dạy cách đánh chữ. Bé rất thích thú và hàng ngày mang thơ, truyện ra gõ. Khi
ấy dù chưa biết gì nhưng bé đã có thể dần dần nhớ được cách ghép chữ, và sau đó tự mình
cũng có thể nhớ cách viết truyện và thơ. Lúc đó bé chưa đầy 3 tuổi. Không lâu sau tôi phải
nhập viện để phẫu thuật. Hàng ngày bé đều dùng máy đánh chữ để viết thư cho tôi, đối với tôi
đó là sự động viên suốt đời không thể quên được.
Sau đó, Winifred hàng ngày đều gõ các tác phẩm thơ và văn nổi tiếng, nhờ đó bé dần
dần thuộc hết. Và tôi thực sự cho rằng máy chữ là một công cụ hết sức hiệu quả.
Tôi cũng dạy bé cầm bút. Giống như việc sử dụng máy chữ, trẻ con bao giờ cũng thích bắt
chước người lớn, nên khi Winifred thấy tôi cầm bút và muốn học cách dùng, tôi bắt đầu dạy.
Lúc đầu tôi ko để bé dùng bút máy mà dùng bút chì đỏ. Lần đầu tiên viết được tên mình, bé
được cha đặc biệt khen ngợi. Bé rất đỗi vui mừng và chăm chỉ tập viết. Sau nhiều ngày luyện
tập, bé đã có thể viết được. Đó là thời điểm 17 tháng tuổi.
Khi Winifred viết được những câu đơn giản, tôi bắt đầu cho bé viết nhật ký. Vì thế bé
có nhật ký từ năm 2 tuổi, sau này mỗi lần đọc lại đều cảm thấy rất có ý nghĩa. Nhân tiện nói
thêm ở đây, tôi nghĩ cha mẹ cũng nên tự mình viết nhật ký cho con. Nhật ký này là để ghi lại
sự phát triển của con qua từng ngày. Đối với con đây cũng sẽ là một kỷ vật hết sức quý giá,
giúp ích cả khi con lớn lên và có gia đình riêng.
Để tạo cho con hứng thú viết văn, tôi khuyến khích con viết thư cho bạn bè. Thường thì
trẻ con ở trường hay chán ghét với việc viết văn, là vì chúng nghĩ đó chỉ là việc học tập.
Nhưng nếu được viết một bức thư thực sự, trẻ sẽ rất cố gắng. Ngoài ra, tôi còn cho bé tham
gia các cuộc thi viết trên báo. Winifred 5 tuổi đã nhận được cả huy chương vàng và bạc khi
viết cho tờ Saint Nicholas.
VI.
Để việc dạy và học trở nên hấp dẫn, tôi cũng áp dụng phương pháp giáo dục giống như
của Witte cha. Hàng ngày tôi cùng con đi dạo ngoài cánh đồng và nói với con những câu
chuyện thú vị về thực vật, động vật, hóa học, vật lý, địa lý, thiên văn. Chúng tôi cùng nhau
ngắt những bông hoa, ngọn cỏ để “giải phẫu”, đập vỡ một viên đá để quan sát, xem xét tổ
chim, ngắm nghía những con sâu nhỏ… Winifred ban đầu rất sợ sâu xanh, nhưng sau khi
nghe tôi giải thích là sâu xanh khi lớn sẽ trở thành những con bướm xinh đẹp thì bé ko sợ
nữa. Và tôi kể cho bé nghe về các loài ong và bướm, bé rất thích thú, sau đó tự mình nghiên
cứu và viết ra rất nhiều chuyện về đời sống của chúng. Winifred còn tìm hiểu cả về bọ cánh
cứng. Bé nói với tôi là có hơn 150 nghìn loại, và bé có ý định sẽ tự mình tìm ra 1 loại mới. Vì
thế bé đọc rất nhiều sách, vào mùa đông bọ cánh cứng không xuất hiện, bé lại đến Sở nghiên
cứu Carnegie để xem các tiêu bản của chúng.Bảo tàng của Sở nghiên cứu Carnegie với chúng
tôi rất có ích. Hàng tuần tôi đều đưa con tới đó. Ở đây ngoài động thực vật chúng tôi còn có
thể tìm hiểu về phong tục tập quán, trang phục, đồ dùng của nhiều thời đại.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có thể ngắm hoặc phác thảo lại những bức danh họa hay
các tác phẩm điêu khắc nổi tiếng.Có nhiều bà mẹ rất khổ sở vì sự quậy phá của con, đó chính
là vì chúng quá dư thừa sức lực không biết sử dụng vào việc gì. Nếu được gần gũi khám phá
thiên nhiên, chắc hẳn trẻ sẽ không còn thừa hơi quậy phá nữa. Không những thế, càng gần gũi
với thiên nhiên, tâm hồn con người càng trở nên hướng thiện. Thế nên xã hội ngày xưa hầu
như không có người xấu.Trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên thì không chỉ thể chất mà cả tinh
thần cũng đều khỏe khoắn. Trẻ sống ở thành phố nhiều khi do không được hít thở bầu không
khí trong lành nên tính tình hay cáu kỉnh, khó chiều. Vì vậy tôi nghĩ, nếu kinh phí sử dụng để
cảm hóa thanh thiếu niên hư được dùng để đưa các em nhỏ tiếp xúc nhiều hơn với tự nhiên
thì sẽ giảm thiểu được con số phạm pháp trong tương lai.Để cho trẻ trồng cây cũng là một
việc rất tốt. Tôi cho Winifred tham gia làm vườn từ khi còn nhỏ, những việc như trồng hoa,
nhặt cỏ. Hàng ngày tưới nước và nhìn ngắm sự phát triển của cây cảm thấy rất vui.Hàng năm
vào mùa hè, tôi lại dẫn con lên núi cắm trại vài ngày. Có khi lại ra cánh đồng, nằm dài trên
cỏ, ngắm hoa và quan sát côn trùng.Một điều may mắn của tôi là được sống gần rừng trong
nhiều năm. Đối với trẻ thì không có cuốn sách giáo khoa nào đầy đủ và thiết thực hơn là một
cánh rừng. Ban ngày tôi thường cùng một thị nữ dẫn Winifred vào rừng chơi. Ở đó tôi có thể
chỉ dạy cho con tên của nhiều loại cây cối và chim muông. Chúng tôi còn mang theo cả máy
ảnh để chụp những nơi có nhiều hoa và phong cảnh đẹp. Cũng tại cánh rừng này, tôi dạy con
rất nhiều bài thơ về tự nhiên. Những ngày đẹp trời, không gian yên tĩnh, vừa hít thở bầu
không khí trong lành, vừa ngâm thơ, thực là khoan khoái vô cùng. Có khi Winifred lại ngồi
vẽ tranh hoa lá hoặc viết những câu chuyện về cây cỏ, chim chóc.Từ mùa đông năm ngoái
Winifred cho bắt đầu nuôi chim. Hiện tại có 2 con chim hoàng yến, được Winifred dạy từ nhỏ
nên đã có thể nhảy múa theo tiếng hát hoặc tiếng vỗ tay. Khi Winifred chơi piano, chúng lại
bay đến đậu trên vai. Chúng còn biết nhắm mắt, biết dùng mỏ lật trang sách theo lệnh.Chúng
tôi còn nuôi cả chó và mèo. Nhìn chung khi nuôi các con vật như thế, trẻ thường rất chăm chỉ
kiếm thức ăn và nước uống cho chúng, tâm hồn trẻ cũng trở nên giàu tình cảm hơn. Nhiều
bậc cha mẹ thường lo rằng để trẻ nuôi vật cảnh có thể dễ nhiễm bệnh, nhưng nếu ta chú ý dạy
trẻ thì sẽ vẫn đảm bảo an toàn. Ngoài ra tôi còn cho Winifred nuôi cá cảnh. Trong phòng của
bé có cả cá vàng và cá chép. Thi thoảng tôi đưa bé đến thăm “Hải dương trên cạn” để mở
mang kiến thức.Với các môn vật lý, hóa học, địa chất, khoáng vật học, tôi cũng giáo dục con
theo cách tương tự.Để khơi dậy niềm đam mê với thiên văn học thì cho trẻ đọc truyện thần
thoại là tốt nhất. Tôi đã áp dụng phương pháp này. Một may mắn nữa là chúng tôi có thể đi
đến nhiều đài thiên văn để quan sát các vì sao qua kính viễn vọng, và ở đó chúng tôi có khá
nhiều bạn là nhà thiên văn có thể giúp đỡ Winifred trong lĩnh vực này.Có thời gian chúng tôi
sống ở ven biển Virginia và thường xuyên đi chơi ở bãi biển. Tôi nghĩ rằng bãi biển rất có ích
trong việc cung cấp khái niệm địa lý cho trẻ. Chúng tôi khi thì đi nhặt sò, khi thì đi thu thập
tảo biển, bắt cua, nhặt sao biển và sứa. Những lúc như thế tôi có thể nói cho con nghe rất
nhiều về các loại hải sản, cả về sông núi, hồ, vịnh, đảo,… Sau đó tôi mua quả địa cầu về, chỉ
cho con Đại Tây Dương, kế đó là Châu Âu, rồi nước Mỹ,… dần dần Winifred đã nhớ được
những điểm cơ bản về địa lý thế giới. Tôi cũng đưa con đi du lịch khá nhiều nơi để mở rộng
tầm mắt. Kết quả là, Winifred có một kiến thức về địa lý thế giới đáng kinh ngạc.

VII.
Để dạy trẻ, thì không gì hiệu quả hơn là những câu chuyện. Qua đó trẻ có thể phát triển
trí nhớ, kích thích khả năng tưởng tượng, mở mang tri thức. Nếu đưa cho trẻ một vật thể và
bảo trẻ ghi nhớ thì sẽ rất khó vào, nhưng nếu kể cho trẻ nghe một câu chuyện về vật thể đó thì
trẻ sẽ rất vui vẻ lắng nghe va tự nhiên sẽ nhớ. Từ khi Winifred chưa biết nói, tôi đã kể cho
con nghe rất nhiều truyện thần thoại Bắc Âu, Hi Lạp, Rô ma. Khi con biết nói rồi, 2 mẹ con
lại cùng nhau diễn lại. Mục đích của truyện thần thoại là để sau này con có hứng thú với thiên
văn và điêu khắc, đồng thời khi nghiên cứu về văn học cũng sẽ dễ dàng hơn. Tôi cũng kể cho
con nghe nhiều về kinh thánh, và sau đó chúng tôi lại cùng nhau đóng kịch.
Tôi còn nhận thấy rằng để nếu sự vật sự việc được ghi lại dưới hình thức văn vần thì sẽ rất dễ
thuộc, dễ nhớ, vì thế tôi đã áp dụng để dạy con từ khi còn nhỏ. Sau này Winifred cũng tự
mình viết được khá nhiều những bài văn vần, một phần trong số đó gần đây được xuất bản
thành tập có tên Facts in Jingles.
Đối với môn lịch sử, chúng tôi cũng đọc và sau đó tự diễn lại. Tôi nghĩ rằng nếu ở
trường học mà làm được như vậy thì trẻ sẽ nhớ rất lâu. Ta cũng không cần mất quá nhiều thời
gian, mỗi ngày chỉ làm một chút là được. Nhưng cứ nhìn vào phương pháp dạy môn lịch sử
hiện nay thì các em không có hứng thú là đương nhiên.
Năm lên 8 tuổi Winifred được cha làm cho một bộ xương để học về sinh lý. Trong thời
gian cha đi du lịch, Winifred tự viết các bài văn vần về xương, cơ, nội tạng, sau đó đã dễ
dàng thuộc hết, khi cha trở về rất ngạc nhiên và vui mừng. Liên quan đến môn sinh lý học,
Winifred còn nghiên cứu về cả vệ sinh và rất tâm đắc với những vấn đề liên quan đến thực
phẩm và khả năng gây bệnh.
Mong muốn của tôi trong việc giáo dục con, bồi dưỡng tri thức cho con, là phải làm sao
để con trở thành người có ích, chứ không muốn con lớn lên giống như nhiều người trên thế
giới, đọc hàng ngàn vạn cuốn sách, biết rất nhiều thứ nhưng lại chẳng giúp gì cho bản thân và
xã hội.
VIII.
Trong các trường học hiện nay, hầu hết học sinh đều không thích học tiếng Latinh. Lý
do là các em không có nền tảng của môn này. Cá nhân tôi nghĩ rằng cần phải tạo cho con một
nền tảng cơ bản từ sớm,vì thế tôi đã dạy con tiếng Latinh ngay từ khi còn trong nôi. Tôi nghĩ
tiếng Latinh là hết sức cần thiết cho việc học tập nghiên cứu, và biết được tiếng Latinh thì các
tiếng như Pháp, Ý, TBN, hoàn toàn có thể học dễ dàng.
Với trẻ con thì chủ yếu dùng tai chứ không phải mắt, vì thế tôi bắt đầu cho con ghi nhớ
bằng tai trước. Ở trường thường dạy tiếng Latinh bằng cách ghi nhớ các biểu và quy tắc
trước, nhưng như thế là sai lầm. Khi Winifred 4 tuổi có nói chuyện bằng tiếng Latinh với 1
giáo viên môn này, nhưng người đó hoàn toàn không hiểu gì. Nghe qua thì rất lạ nhưng đúng
là có rất nhiều nhà ngôn ngữ có thể đọc viết được nhưng lại không thể nói được thứ tiếng này.
Năng lực ngôn ngữ của trẻ con cực kỳ đáng kinh ngạc. Lúc Winifred vừa biết nói tiếng Anh,
tôi liền dạy bé câu “Xin chào” bằng 13 thứ tiếng và bé đều nói được. Mỗi ngày tôi lại dạy con
một ít tiếng Latinh, đến 5 tuổi bé đã có thể thuộc lòng quyển 1 của tập Aeneis, nhớ được hơn
500 bài thơ của nhiều tác giả.
Để việc học ngôn ngữ của con có hiệu quả nhất, tôi cũng dạy dưới dạng trò chơi (phần
này tác giả xin được lược bỏ vì dài dòng).
IX.
Trong số các môn học, làm cho con có hứng thú với Toán học là khó hơn cả. Như đã đề
cập ở chương 4, với phương pháp của mình, tôi đã nhanh chóng dạy con nhớ được chữ số và
cách đếm, và bé cũng đã biết đếm tiền khi đi mua hàng. Nhưng khi tôi dạy đến bảng cửu
chương, lần đầu tiên tôi thấy con tỏ ra chán ghét với việc học. Tôi bèn thử biến nó thành bài
hát, vừa hát vừa dạy, nhưng vẫn không có hiệu quả. Winifred 5 tuổi, nói được 8 thứ tiếng,
viết được truyện và thơ đăng trên nhiều báo và tạp chí, hiểu biết về thần thoại, văn học, lịch
sử ngang tầm với học sinh trung học, thế nhưng lại không nhớ nổi bảng cửu chương! Tôi đã
rất lo lắng con mình bị học lệch, vì tôi từ lâu tôi đã có suy nghĩ sẽ giáo dục con theo hướng
toàn diện chứ không phải chỉ xuất sắc trên một lĩnh vực.
May sao trong lần đi tuyên truyền về tiếng Esperanto, tôi đã gặp được một giảng viên
Toán học rất tuyệt vời của trường ĐH nữ Starrett. Sau khi nghe tôi trình bày mối lo lắng của
mình, bà nói: “Không phải con gái bà là người không có khả năng học Toán, cũng không phải
cháu bị phát triển lệch. Đó là vì phương pháp dạy của bà không tốt. Bà không biết làm cho nó
trở nên thú vị. Bản thân bà yêu thích các môn Văn học, Lịch sử, Âm nhạc, Ngôn ngữ, cho
nên bà biết cách dạy sao cho thật hấp dẫn, vì thế con bà cũng dễ dàng học được. Đối với môn
Toán, ngay bản thân bà cũng không hứng thú, thế nên bà dạy con như thế, cháu có chán ghét
cũng là dễ hiểu.” Sau đó hàng tuần bà viết thư cho tôi, chỉ bảo phương pháp dạy môn Toán
dưới dạng trò chơi. Nhờ đó, Winifred đã tiến bộ vượt bậc

Đầu tiên, tôi phải cố gắng làm cho con cảm thấy thích môn Toán. Tôi dùng một cái hộp,
để các hạt đậu và những chiếc nút trong đó. Hai mẹ con cùng thi nhau nhặt ra và đếm xem ai
nhiều hơn. Hoặc là khi người thị nữ tách hạt lạc thì cùng đếm xem 2 củ thì sẽ được thành mấy
hạt nhỏ, 3 củ thì được mấy hạt,…
Chúng tôi còn chơi trò đổ xúc xắc. Đầu tiên dùng 2 con. Hai người lần lượt đổ. Giả sử
đổ ra 3 và 4 thì sẽ tính là 7 điểm. Nếu bằng điểm thì đổ lại. Chơi 3 hoặc 5 lần để phân định
thắng thua.
Winifred rất thích trò chơi này, nhưng mỗi lần 2 mẹ con chỉ chơi trong vòng 15 phút. Vì
theo lời khuyên của bà giáo, thì khi chơi những trò này trẻ phải tu duy nhiều nên việc kéo dài
quá lâu sẽ không tốt. Sau 2, 3 tuần chơi như vậy, số xúc xắc tăng dần lên 3, 4 và cuối cùng là
6 con.
Tiếp đó tôi lại dùng hạt đậu xếp thành 2 hàng 2 cột, 2 hàng 3 cột, 3 hàng 3 cột,… rồi
cùng đếm và ghi lại, đồng thời tôi dán bảng cửu chương lên tường. Nhờ đó Winifred đã dần
dần hiểu được 2 lần 2 là 4, 3 lần 3 là 9 nghĩa là thế nào, và bé thực sự rất lấy làm vui thích.
Để ứng dụng Toán học vào thực tế, tôi cùng con chơi trò mua bán hàng. Các đồ để mua bán
rất đa dạng, có thể dựa vào độ dài, trọng lượng, hay có khi chỉ nhìn bằng mắt. Giá cả là giá
hiện thời. Tiền là tiền thật. Tôi là người tới cửa hàng của Winifred và mua một số đồ, sau đó
bé sẽ tính toán giá cả và trả lại tiền thừa.
Khi Winifred làm tốt việc gì, tôi sẽ thưởng tiền. Ngoài ra bé còn nhận được một số tiền
nhờ vào việc viết bài cho các báo. Tất cả được gom góp lại gửi ở ngân hàng dưới tên
Winifred, và hàng tháng bé đều tự mình tính lãi.
Theo cách mà bà giáo đã bày cho tôi, Winifred rất nhanh chóng thích thú với môn
Toán. Bé học được số học, rồi dần dần học đến đại số và hình học cũng với các phương pháp
tương tự.

X.
Rất nhiều bà mẹ, khi thấy con mình khóc thì ngay lập tức cho uống sữa hoặc ăn kẹo để
dỗ dành. Điều này là không nên. Cho trẻ ăn hay uống quá nhiều đều không tốt, có khi còn
sinh bệnh. Cái mà có thể làm cho trẻ vui không phải chỉ là ăn uống. Ngoài tác động vị giác
còn có tác động thị giác và thính giác nữa. Vì thế khi con khóc, tôi gõ chuông cho con nghe,
lắc những thứ phát ra âm thanh, hoặc gây chú ý cho con bằng các quả bóng bay…
Bởi vì trẻ cần phải được phát huy các năng lực tiềm tàng của mình, nên các trò chơi cũng
phải đáp ứng được tiêu chí đó. Tôi dành một góc phòng của con làm nơi tập thể dục. Ở đó tôi
đặt những dụng cụ phù hợp với việc rèn luyện sức khỏe, Winifred có thể tập gậy, đánh đu,…
Các trò chơi của bé đều nhằm mục đích nâng cao trí tuệ, thể lực, đạo đức, phát huy tốt nhất
mọi khả năng của bản thân, không lãng phí sức lực một cách vô ích.
Trẻ con thường thích những trò chơi bắt chước, diễn kịch. Những trò chơi kiểu này lại rất
hiệu quả trong việc mở rộng hiểu biết của trẻ. Ở các rạp hát dành riêng cho trẻ em, nếu tổ
chức được các kịch bản như thế sẽ rất có ích. Tôi nghĩ rằng các bộ phim cũng có thể mở ra
nhiều vấn đề để bàn luận, nhưng nếu đem so sánh thì loại kịch này có tính giáo dục thiết thực
hơn. Tôi thường xuyên dẫn con đi đến những chỗ như thế, và khi về 2 mẹ con sẽ cùng diễn
lại, nếu không đủ người thì sẽ dùng búp bê.
Tôi và con cũng hay chơi trò chơi bịt mắt. Bé sẽ bị che mắt và đoán xem một vật nào đó
là vật gì, hoặc là đi quanh phòng để xác định đồ vật. Loại trò chơi này giúp trẻ phát triển xúc
giác.
Để phát triển thị giác, chúng tôi chơi trò đố“cái này có bao nhiêu”. Tôi sẽ xếp các quân
cờ tướng hoặc hạt đậu trên bàn, sau đó cho bé nhìn qua 1 chút và đố xem số lượng là bao
nhiêu. Với trò chơi này thì có rất nhiều cơ hội để áp dụng. Chẳng hạn khi ăn có thể đố có bao
nhiêu miếng táo trên đĩa, hay khi cùng nhau đi bộ trên đường có thể đố có bao nhiêu thứ gì đó
trên vỉa hè… Trò chơi này giúp trẻ trở nên nhạy bén và có trí nhớ tốt.
Khi Winifred còn rất nhỏ, tôi thường dẫn con đi đến nhiều nơi, lần sau đến đó tôi để con
đi trước và dẫn tôi theo. Đến khi bé được 16 tháng tuổi đã có thể dẫn mẹ và nhũ mẫu đến khá
nhiều địa điểm.
Nói về các trò chơi phát triển thị giác thì có rất nhiều. Lấy ví dụ tôi nghĩ về món đồ gì
đó trong phòng, và bảo là nó màu đỏ. Khi đó Winifred sẽ lần lượt tìm các đồ màu đỏ trong
phòng để đoán, và chỉ được đoán trong một số lần nhất định, giả sử 3 hoặc 5. Nếu không
đoán trúng thì sẽ thua cuộc.
Lại nói về trò chơi với bảng cửu chương. Tôi viết các phép tính vào các mảnh bìa, ví dụ
5×7, 8×9. Có rất nhiều các mảnh như thế, sẽ lần lượt được đưa ra. Người chơi phải ngay lập
tức trả lời là 35, 72. Nếu trả lời chậm hoặc sai thì người kia sẽ trả lời thay và được lấy tấm bìa
đó.
Khi lái máy bay cần phải nhớ những thao tác điều khiển máy bay. Trẻ con cũng cần
phải nhớ những thao tác của bản thân mình, hay nói cách khác là biết điều khiển tay chân
mình. Để làm được điều đó có 1 trò chơi gọi là “bắt chước tượng đồng”, có nguồn gốc từ
người Hy Lạp. Khi chơi trò này, 1 người sẽ giữ nguyên 1 tư thế nhất định trong khi người kia
sẽ đếm đến 50 hoặc 100, nếu cử động sẽ bị thua.
Ta cũng có thể dùng vải, giấy,… để tạo ra nhiều đồ chơi rèn luyện sự khéo léo của đôi
tay. Các trò chơi cần vận động đầu óc cũng rất nhiều, và trẻ có thể chơi mà không biết chán.
Tôi thường dùng giấy để xếp thuyền và bướm cho con, dùng vải để làm búp bê, dùng vỏ bao
thuốc lá làm xe ngựa, dùng các hộp to để xây nhà và thành trì, làm cầu và tháp… Ngoài ra tôi
còn dùng hạt đậu Nam Kinh làm thành hình người, dùng quả chuối làm ngựa. Những thứ này
không phải chỉ nhằm để chơi mà còn có tác dụng phát huy khả năng sáng tạo của trẻ.
Lúc nhỏ Winifred được dạy cả việc khâu vá và may quần áo cho búp bê. Năm 4 tuổi, bé lần
đầu tiên tặng mẹ một món quà, đó là con búp bê đội mũ được khâu bằng rất nhiều chỉ. Tôi
cũng dạy bé đan, và bé đã làm ra được khá nhiều thứ. Tuy nhiên việc khâu vá nếu kéo dài sẽ
ảnh hưởng đến thần kinh, vì thế mỗi lần chỉ nên làm khoảng 15 phút. Với việc như vẽ tranh
thì có thể lâu hơn, tầm 30 phút. Nhưng nhìn chung việc gì cũng không được để trẻ làm đến
mức cực nhọc.
Đối với trẻ con thì đồ ăn, trò chơi, bạn chơi, nên thường xuyên thay đổi. Emerson có
nói: Nếu thế giới chỉ có 2 người thì trong vòng 1 ngày giữa họ sẽ hình thành quan hệ chủ-tớ.
Vì thế, tôi rất chú ý để con không chỉ chơi suốt với 1 người bạn, tránh cho giữa chúng nảy
sinh kiểu quan hệ như trên. Có những người nói rằng, để cho bé trai và bé gái chơi với nhau
là không tốt, nhưng tôi thì nghĩ ngược lại. Khi chơi như thế, bé gái sẽ dịu dàng nữ tính hơn,
và bé trai sẽ có cơ hội để chứng tỏ sự dũng cảm, khí phách của mình. Hai bên sẽ đều nhanh
chóng trở nên người lớn hơn.
Làm vườn cũng rất tốt cho việc mở mang kiến thức và rèn luyện sức khỏe cho trẻ. Khi
con vừa biết đi, tôi mua một cái mai và một cái xẻng nhỏ. Tôi dạy cho bé cách gieo hạt, trồng
hoa, nhỏ cỏ, tưới cây. Tôi nhận thấy rằng những công việc này cũng góp phần bồi đắp cảm
hứng và rèn luyện tính kiên nhẫn cho con trẻ.
Có nhiều bà mẹ không có hứng thú với các trò chơi của con. Trong khi họ bận bịu việc
khâu và, bếp núc, con làm được bao nhiêu thứ và sung sướng đem khoe mẹ nhưng họ cũng
không thèm nhìn. Như vậy trẻ sẽ buồn bực và dẫn đến phá phách, rồi lại bị đánh mắng.
Nhưng đó hoàn toàn là do lỗi của người lớn.
Người làm cha mẹ phải nỗ lực để cùng chơi với con trẻ. Người mẹ mà vì bận việc nhà
mà bỏ mặc con tự chơi là không hoàn thành nghĩa vụ giáo dục con. Trong thời đại tiến bộ
ngày nay, làm gì cũng phải tính toán, không nhất thiết phải ôm tất cả mọi việc vào mình mà
nên tận dụng sự tiến bộ của nhân loại để làm sao trong 1 ngày không lãng phí thời gian đáng
lẽ ra phải dành để giáo dục con. Để trẻ tự chơi chắc chắn sẽ dẫn đến cãi cọ, khóc lóc. Người
lớn phải luôn giám sát được sự chơi đùa của trẻ cả khi trong nhà lẫn bên ngoài. Về điểm này
phụ nữ nước ta phải học tập các bà mẹ Nhật Bản. Vào dịp Tết, vào các tháng 3,5,7, họ đều có
lễ hội trong đó người lớn làm rất nhiều thứ cho trẻ em được vui chơi. Một điểm nữa ở các bà
mẹ Nhật Bản là trong phòng họ không dành riêng ra một góc chuyên xếp những đồ lặt vặt
trong nhà và cấm con trẻ được động vào. Họ thường dọn dẹp sạch sẽ mọi thứ để con được vui
chơi ở những chỗ rộng rãi. Họ cũng không đi giày dép trong nhà, vì thế sàn nhà luôn sạch sẽ
và trẻ có thể chơi thoải mái trên đó. Nhân tiện tôi xin nói thêm ở đây về trò chơi bài của Nhật
Bản. Đó là một loại trò chơi rất có tác dụng trong việc giúp trẻ lanh lợi và có trí ghi nhớ tốt.
Đối với các môn học như lịch sử, địa lý, toán học, tôi đều dùng cách viết ra các tấm bìa và
cùng chơi với con dưới dạng chơi bài, hiệu quả thực sự đáng ngạc nhiên.
Tính xã giao với trẻ cũng rất cần thiết. Nên khuyến khích trẻ tổ chức và tham gia các hội, tất
nhiên phải đảm bảo vừa vui vừa có ích. Winifred hiện đang là hội viên hội tương trợ thiếu
niên, chuyên gửi hoa và đồ chơi tự làm đến cho các em nhỏ bị đau ốm.
Tuy nhiên, trong các thú vui của trẻ thì đọc sách là quan trọng nhất. Nhưng trẻ thích đọc sách
gì lại phụ thuộc vào những cuốn sách mà trẻ được đọc đầu tiên, vì thế bố mẹ phải hết sức chú
ý trong việc lựa chọn sách, cũng chính là định hướng cho con. Đó không chỉ là những cuốn
sách để đọc mà còn là thứ sẽ ảnh hưởng đến cả tương lai của con sau này. Báo chí thì hầu
như trẻ nhỏ không có thói quen đọc, thậm chí có cả những trẻ mà cha mẹ không cho phép
đọc. Tôi thì không nghĩ như vậy, song báo ở nước ta nhiều khi có những tranh ảnh và bài viết
không có chút ý nghĩa nào, vì vậy cũng cần phải chú ý chọn lựa.

Một điều quan trọng nữa là những câu chuyện mà ta kể cho trẻ, đặc biệt là khi còn nhỏ.
Nó không chỉ là sự mở mang tri thức mà còn là chiếc cầu đưa trẻ đến với việc ham thích đọc
sách. Tôi thường kể chuyện cho con, đến đoạn hấp dẫn tôi dừng lại, nói rằng truyện đó nằm ở
trong quyển này, quyển kia, và khuyến khích con tự đọc.
XI.
Con người ta hạnh phúc là ở chỗ có trí tưởng tượng. Người nào không có óc tưởng
tượng thì cũng không thể có hạnh phúc thực.
Trên thực tế có những người rất tẻ nhạt, chỉ luôn miệng nói sự thật, sự thật và bài xích
sự tưởng tượng. Họ tránh xa những thứ như Ông già tuyết, Bà tiên… Họ cho rằng những
truyện cổ tích và những truyện thần kỳ là phi logic và sẽ chỉ có hại cho trẻ. Quan niệm đó là
sai lầm. Tình yêu đối với cây cối, chim chóc, muông thú; tinh thần hướng thiện; những ước
mơ đẹp đẽ; đó chính là những gì trẻ thu nhận được qua những câu chuyện cổ tích thần tiên.
Trẻ lúc nhỏ mà được phát huy trí tưởng tượng thì khi lớn lên, dù trong bất hạnh cũng sẽ tìm
ra hạnh phúc, trong bần hàn cũng vẫn biết cách tận hưởng cuộc sống.
Nếu trẻ không được phát huy óc tưởng tượng thì tất yếu khi lớn lên sẽ không thể trở
thành thi nhân, tiểu thuyết gia, nhà điêu khắc, họa sỹ; cũng chẳng thể trở thành kiến trúc sư,
nhà khoa học, luật sư,… Có những người nghĩ rằng Toán học hay các ngành khoa học tự
nhiên thì không cần óc tưởng tượng, nhưng không phải như vậy. Những nhà phát minh phát
minh ra máy móc, những bác học tìm ra chân lý, những kiến trúc sư thiết kế các công trình,
tất cả đều cần có óc tưởng tượng.
Tôi thường kể cho con nghe rất nhiều truyện cổ tích thần kỳ. Vì thế ngay từ nhỏ bé đã
rất yêu thiên nhiên. Cũng từ những câu chuyện đó, bé đã học được tính trung thực, ngay
thẳng, thân thiện, dũng cảm, vị tha; hướng tới làm nhiều điều thiện, tránh làm điều ác.
Để phát huy trí tưởng tượng của con, tôi không chỉ kể chuyện. Tôi còn cho con xem những
bức tranh đẹp và kể với con những câu chuyện tự tôi nghĩ ra. Bé cũng tự mình sáng tạo ra
nhiều câu chuyện khác. Nhưng hiệu quả nhất vẫn là tự diễn lại những câu chuyện cổ tích đó
theo cách của mình.
Về đồ chơi của con, tôi tâm niệm là phải đơn giản nhưng có ích, kích thích khả năng
tưởng tượng của trẻ. Lúc con còn nhỏ, tôi chỉ làm cho con búp bê bằng vải. Những con búp
bê đẹp đẽ, đắt tiền mà dễ hỏng thì không thể ôm đi ngủ, vì thế tôi không mua. Sau đó tôi dạy
con may quần áo cho búp bê, rồi tôi mua những đồ chơi được làm giống như các đồ dùng
trong nhà để con có thể bắt chước người lớn làm mọi việc. Với các mảnh gỗ và hộp giấy, tôi
cùng con xây thành, làm nhà…
Gần đây, ở mước ta đang thịnh hành phương pháp giáo dục của Montessori. Sách của
bà ra đến đâu hết sạch đến đó. Nhiều người chấp nhận bỏ một số tiền khá lớn để mua các giáo
cụ của bà, hay gửi con đến học ở “Ngôi nhà tuổi thơ” do bà sáng lập. Người không thể gửi
con đi học thì lại so bì rồi ghen tị với những người có đủ khả năng tài chính. Nhưng tôi thấy
điều đó không cần thiết. Bởi vì phương pháp của Montessori chắc chắn không thể làm cho
con bạn trở thành vĩ nhân. Đây không phải chỉ là ý kiến của cá nhân tôi mà là của rất nhiều
nhà giáo dục khác. Là bởi vì phương pháp của bà chỉ chú ý vào hiện thực, không phát huy
được óc tưởng tượng của trẻ. Không phủ nhận bà là một nhà giáo dục vĩ đại, và những cống
hiến của bà là rất lớn, nhưng cái đó chỉ phù hợp với những trẻ chậm phát triển, còn đối với trẻ
bình thường thì ko thực sự mang lại hiệu quả. Có thể bản thân bà ko phải là người có trí
tưởng tượng phong phú, vì bà coi những câu chuyện thần tiên là những thứ xuẩn ngốc, và
phương pháp của bà hoàn toàn không đếm xỉa gì tới việc huấn luyện trí tưởng tượng cho trẻ.
Trên thực tế những thứ xuẩn ngốc đó lại đem đến cho trẻ năng lực sáng tạo dồi dào mà các
phương pháp giáo dục hiện thực của bà không làm được.
XII.
Một con người lý tưởng phải là sự kết hợp hài hòa 3 yếu tố: phẩm cách, sức khỏe, trí
tuệ. Thế nên, giáo dục con trẻ không phải chỉ là phát triển tri thức mà còn là nuôi dưỡng
phẩm cách, và đối việc ươm mầm đạo đức cho tâm hồn trẻ thì không bao giờ là sớm cả.
Trẻ nhỏ thường chịu ảnh hưởng nhiều từ bố mẹ, cả những điều hay và những việc không
phải, vì thế để nuôi dưỡng phẩm chất tốt đẹp cho con thì bố mẹ phải là những tấm gương
sáng. Nếu người mẹ thích trưng diện, hẳn con gái cũng sẽ thích trưng diện. Người cha mà hay
rượu chè, con trai chắc chắn cũng rượu chè. Để trở thành tấm gương sáng cho con, người cha,
người mẹ cần tu dưỡng bản thân, và chính họ cũng sẽ trở thành những người vĩ đại.
Có câu nói, gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số
phận. Vì vậy số phận của con ra sao chính là nằm trong tay những người làm cha mẹ. Platon
có nói: “Những người xấu trên đời, không phải họ sinh ra đã thích làm chuyện xấu, mà vì họ
không được hưởng sự giáo dục tốt ”.

Thói quen nhất thiết phải tập cho con ngay từ nhỏ là sự chuyên cần. Đây là một đức
tính rất quan trọng trong đời sống con người, là cơ sở mang lại thành công và hạnh phúc. Trái
lại là sự lười biếng. Nó sẽ được tạo ra bởi một người mẹ không biết hướng con sử dụng sức
lực của mình vào việc có ích, để con bực bội và phá phách. Tục ngữ có câu: “Ác ma mượn
tay những người lười biếng để làm điều ác”, điều đó hoàn toàn đúng với trẻ em.
Đức tính quan trọng tiếp theo là sự tự chủ. Người xưa nói: “Người sung sướng không
phải là người có thể làm chủ đồng tiền, mà là người làm chủ được bản thân”.
Sự dũng cảm cũng rất cần thiết với trẻ. Có những người mẹ nghĩ rằng khi con bị
thương, nếu không tỏ ra chú ý quan tâm thì sẽ chỉ làm cho trẻ tủi thân. Nhưng thực tế trong
TH đó cần phải nhanh chóng chấm dứt những lời nói liên quan đến sự đau đớn, hướng sự tập
trung của con qua vấn đề khác và làm cho trẻ quên đi cái đau. Nhưng sự dũng cảm khác với
sự vô cảm, vì vậy cũng cần thiết phải giáo dục để con biết đồng cảm với nỗi đau của người
khác.
Bởi vì trẻ có xu hướng theo gương cha mẹ, đặc biệt là trong những hành vi thường
ngày, vì vậy những người lớn nhất định không được nói tục, không được xử sự thô lỗ, phải
luôn đúng giờ, nếu có hẹn thì phải đến sớm để khỏi làm phiền người khác phải đợi…
Ở nhà nhiều người có thói quen nói năng cẩu thả, tuy nhiên khi có trẻ nhỏ thì nhất thiết phải
chú ý dùng những từ ngữ lịch thiệp, lễ phép. Các câu nói cảm ơn, xin lỗi, làm ơn,… phải
thường xuyên được sử dụng. Con trẻ thường bắt chước hoàn toàn ngôn ngữ của cha mẹ, vì
thế người lớn không được phép tùy tiện.
Các môn như số học, địa lý, thì khi lớn lên cũng có thể nhớ được. Nhưng những hành vi
ứng xử nếu không rèn từ nhỏ thì về sau học sẽ rất khó. Trên thế giới có không ít nhà khoa học
kiến thức đầy mình, nhưng nếu nói đến những người biết cách cư xử đẹp thì không hẳn là đã
nhiều. Bởi vậy, các bậc cha mẹ cần chú ý đến hành vi của con trẻ để uốn nắn kịp thời.
Trẻ từ khi sinh ra đã theo “chủ nghĩa vị kỉ”, coi mình là trung tâm, muốn người khác phục vụ,
chứ hiếm khi biết nghĩ cho mọi người. Nhưng tính cách này có thể giáo dục được. Nếu ngay
từ nhỏ trẻ đã được dạy bảo để quan tâm đến người khác, biết đặt mình vào hoàn cảnh của
người, thì khi lớn lên chắc chắn sẽ trở thành người vị tha.
Trước đây có một vị quan chức cấp cao người Pháp đã hỏi mẹ của Washinton: “Bà đã
giáo dục như thế nào để con mình có thể trở thành một người vĩ đại đến thế?” Người mẹ này
đã trả lời: “Tôi chỉ giáo dục để con biết nghe lời”. Quả thực biết nghe lời cũng là một đức
tính cần thiết. Để giáo dục đức tính đó, cha mẹ khi bảo con làm việc gì, không được làm việc
gì cần phải giải thích rõ ràng để con trẻ hiểu được, từ đó mới tuân theo.
Sự dối trá là một điều hết sức xấu xa. Nhưng trẻ con vốn thiếu kinh nghiệm, lại rất giàu
trí tưởng tượng, nhiều khi nói dối mà không biết đó là xấu, việc này cần được chú ý và uốn
nắn từ nhỏ, nếu không sẽ dần dần trở thành kẻ nói dối có mục đích và làm phương hại đến
người khác.
Trẻ nhỏ thường có tính tham lam, nhưng nếu được giáo dục tốt sẽ biết nhường nhịn và
giúp đỡ mọi người. Từ khi Winifred còn nhỏ, tôi đã thường khích lệ cháu làm những món đồ
nhỏ tặng bạn bè và những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, nhờ đó mà vun đắp tính hướng
thiện. Ngoài ra tôi cũng khuyến khích cháu giúp mẹ nhiều việc nhỏ, tiếp đến là giúp đỡ
những người xung quanh.

Lòng tự trọng cũng là một đức tính rất quan trọng mà nếu không có nó sẽ gây nhiều tai
họa. Những kẻ nghiện ngập, cờ bạc, ăn mày, trộm cướp đều là vì đánh mất lòng tự trọng mà
ra. Nhiều bậc cha mẹ có thói quen nhắc đi nhắc lại những lỗi lầm của con, chính điều đó sẽ
phá hoại lòng tự trọng của trẻ. Việc đay nghiến các tật xấu của con trước mặt người khác
cũng dẫn đến hậu quả tượng tự.
Một nguyên tắc nữa của tôi là không bao giờ trừng phạt bằng roi vọt. Có những
người khi tức giận thì đánh con, rồi lại xót xa thấy con bị đau, lại ôm ấp, rồi cho kẹo… Cách
dạy dỗ đó là làm hại trẻ. Sponsor có nói, giáo dục con trẻ cũng chính là giáo dục cha mẹ.
Những người lớn trước khi chế ngự con phải học cách chế ngự bản thân mình. Trẻ mà bị
đánh đập khi còn nhỏ thì sẽ trở nên ngoan cố, hung bạo, tàn nhẫn.
Tôi cũng không bao giờ mắng con, mà luôn phân tích đúng sai một cách cặn kẽ để con
hiểu. Có không ít người, hàng ngày quá mệt mỏi với công việc, trở về nhà với tâm trạng khó
chịu, rồi đổ lên đầu con cái. Cũng có những người chẳng có việc gì để làm, cuộc sống thiếu
thốn sinh ra buồn bực, ức chế rồi cũng mắng con. Nhưng những đứa trẻ vì bị mắng mà phải
miễn cưỡng làm theo sẽ không phục, không tin tưởng vào cha mẹ, và kết cục kiểu giáo dục
đó sẽ chỉ dẫn đến thất bại.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét